|
Bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là mục tiêu,
là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta (canhsatbien.vn)
|
Trật tự thế giới mới đang định hình
Kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu (2008 - 2009) đến nay, thế giới đang có những thay đổi rất sâu sắc, hướng tới một cục diện “đa trung tâm, đa tầng nấc”. Năm 2018 đã chứng kiến nhiều biến động to lớn, tác động mạnh mẽ tới môi trường hòa bình, ổn định của nước ta, đơn cử như cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc, vấn đề “Brexit” bế tắc, chưa rõ lối thoát... Những sự kiện trên báo hiệu một thời kỳ mới đang hình thành trong quan hệ quốc tế với sáu đặc điểm mới:
Một là, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan, chủ nghĩa dân túy và xu hướng bảo hộ thương mại chưa có dấu hiệu suy giảm. Tại Mỹ, Tổng thống Đô-nan Trăm đã đưa ra nhiều tuyên bố và biện pháp bảo hộ thương mại mạnh mẽ. Nhiều doanh nghiệp lớn của Mỹ đã phải điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Tình hình trên đã tác động mạnh tới dòng thương mại và đầu tư toàn cầu. Năm 2016, tăng trưởng thương mại toàn cầu chỉ đạt khoảng 1%, mức thấp nhất trong nhiều năm qua. Năm 2018, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc tiếp tục tác động sâu sắc tới các xu hướng lớn trong kinh tế, thương mại và đầu tư toàn cầu, khiến nền kinh tế thế giới có nguy cơ rơi trở lại thời kỳ suy thoái.
Hai là, quan hệ giữa các nước lớn về cơ bản vẫn được duy trì trong khuôn khổ vừa hợp tác, vừa đấu tranh, nhưng mặt đấu tranh, nhất là cạnh tranh chiến lược, đang gia tăng và thay đổi rất căn bản. Từ sau khi bán đảo Crưm được sáp nhập vào Nga, Mỹ và các nước phương Tây đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm bao vây, cấm vận nước Nga. Với Trung Quốc, một mặt, Mỹ vẫn duy trì đối thoại và hợp tác ở một mức độ nhất định; mặt khác, gia tăng nhiều biện pháp mạnh để răn đe, như tuần tra tự do hàng hải ở Biển Đông (FONOF); gia tăng sự hiện diện ở khu vực thông qua Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở... Trong cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc, việc Mỹ siết chặt các biện pháp quản lý về công nghệ và sở hữu trí tuệ... đã đẩy cuộc cạnh tranh thương mại lên nấc thang mới. Sự điều chỉnh trong cách nhìn nhận về đối tác, đối tượng của Mỹ đối với nước Nga và Trung Quốc được dự báo sẽ tác động rất lớn tới cục diện thế giới và khu vực trong những năm tới.
Quan hệ giữa Nga và châu Âu, nhất là đối với khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), nhiều khả năng sẽ tiếp tục xu hướng như hiện nay, do cả hai bên chưa có dấu hiệu nhượng bộ trong các vấn đề mà hai bên có lợi ích sát sườn. Xu hướng xích lại gần nhau trong quan hệ Trung Quốc - Nga hiện nay có thể sẽ chậm lại và chưa thể hình thành liên minh hoặc các “cơ chế cứng” để Nga có thể can dự sâu hơn vào tình hình khu vực. Nếu quan hệ Mỹ - Nga được cải thiện, thì nhiều khả năng sẽ tác động mạnh tới quan hệ Trung Quốc - Nga và quan hệ Trung Quốc - Nga sẽ có dấu hiệu chững lại. Quan hệ Nhật Bản - Trung Quốc về cơ bản diễn biến như hiện nay; hai bên cố gắng quản lý xung đột, không để cho những vấn đề tranh chấp lãnh thổ ảnh hưởng tới các mối quan hệ hợp tác, nhất là về kinh tế - thương mại. Trong khi đó, quan hệ Nhật Bản - Nga có thể sẽ được cải thiện trong thời gian tới do Nhật Bản muốn tranh thủ lúc Chính quyền mới ở Mỹ đang định hình chính sách để cải thiện quan hệ với Nga ở phía Bắc, nhằm tập trung đối phó tốt hơn với thách thức liên quan tới Trung Quốc và vấn đề như hạt nhân của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía Tây và Tây Nam.
Ba là, sau hơn 3 năm cầm quyền, chính sách đối ngoại của Mỹ với mục tiêu “nước Mỹ trên hết” đã được triển khai sâu rộng với nhiều đảo lộn, như: 1- Mỹ yêu cầu các đồng minh phải đàm phán lại nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Mỹ cho là bất lợi với mình và yêu cầu đồng minh phải gánh vác trách nhiệm nhiều hơn, rõ nhất là tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương; 2- Tình hình nội bộ nước Mỹ vẫn vô cùng phức tạp, ảnh hưởng lớn tới hoạt động đối ngoại; 3- Mỹ tiếp tục coi trọng và tăng cường can dự khu vực châu Á - Thái Bình Dương với nhiều biện pháp mạnh mẽ, quyết liệt hơn...; 4- Mỹ gia tăng chi tiêu quốc phòng, duy trì triển khai các lực lượng tiền tiêu bằng cách tăng số lượng tàu chiến từ 270 chiếc lên 350 chiếc và dự báo phần lớn trong số này sẽ được tập trung ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Bốn là, thời gian qua nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại rõ rệt và bộc lộ nhiều vấn đề cho thấy, mô hình tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã đến giới hạn. Công cuộc cải cách toàn diện, đặc biệt là các biện pháp cải cách trọng cung để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, duy trì ổn định xã hội... chưa thực sự phát huy được tác dụng. Thậm chí, nhiều nỗ lực cải cách ở Trung Quốc đã bị chậm lại. Tuy nhiên, phát biểu tại lễ kỷ niệm 40 năm cải cách, mở cửa (1978 - 2018), Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tiếp tục khẳng định, từ nay tới năm 2021 vẫn là “thời cơ chiến lược” đối với Trung Quốc. Trung Quốc sẽ tiếp tục đẩy mạnh cải cách toàn diện, nhưng với một vị thế mới, được xác lập từ sau Đại hội XIX của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Về đối ngoại, đến nay Trung Quốc đã cơ bản chuyển từ chủ trương “giấu mình chờ thời”, sang “nỗ lực lập công”, gia tăng các hoạt động nhằm mở rộng ảnh hưởng ở khu vực, quân sự hóa và tiếp tục củng cố các thực thể mà Trung Quốc đã cải tạo và chiếm đóng trái phép ở Biển Đông thời gian qua. Mặt khác, từ sau khi xảy ra cuộc chiến thương mại với Mỹ, Trung Quốc ưu tiên duy trì ổn định nội bộ, tạo công ăn việc làm, giữ ổn định trong quan hệ với Mỹ, tranh thủ vai trò của các nước láng giềng, nhất là các nước ASEAN. Trung Quốc đặc biệt coi trọng việc thúc đẩy Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) và xây dựng Cộng đồng nhân loại cùng chung vận mệnh.
Năm là, thời gian gần đây chứng kiến sự gia tăng đáng kể của các thách thức an ninh phi truyền thống, như hoạt động khủng bố, khủng hoảng di cư, dịch bệnh, vấn đề an ninh nguồn nước, lương thực, khan hiếm tài nguyên... diễn ra ngày càng gay gắt, đòi hỏi các quốc gia phải dành sự quan tâm nhiều hơn để giải quyết. Trong bối cảnh đó, do tương quan so sánh lực lượng đang thay đổi nhanh, nên các cơ chế quản trị toàn cầu cũng đang từng bước được sắp xếp lại hoặc đang phải cải tổ để thích ứng với vấn đề quản trị toàn cầu trong bối cảnh mới, trong đó vai trò và tiếng nói của các nền kinh tế mới nổi ngày càng gia tăng.
Sáu là, đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương, năm 2019 vẫn tiếp tục các xu thế phát triển của năm 2018, cũng như tiếp tục là trọng tâm chiến lược của tất cả các nước lớn. Nhiều khả năng Mỹ sẽ tập trung ưu tiên các biện pháp đơn phương, nhất là về quân sự; gia tăng sự hiện diện về quân sự ở khu vực. Đối với ASEAN, trong năm 2019, Cộng đồng này gặp nhiều thách thức khi tại một số nước thành viên sẽ diễn ra bầu cử, ảnh hưởng không nhỏ tới năm Chủ tịch ASEAN của Thái Lan cũng như Việt Nam khi tiếp nhận vai trò Chủ tịch luân phiên ASEAN vào năm 2020 từ Thái Lan.
Bản chất vấn đề Biển Đông đã thay đổi sâu sắc
Vấn đề Biển Đông thời gian qua đã trở thành tâm điểm tập hợp lực lượng của các nước lớn. Nếu tính từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX đến nay, có thể chia sự phát triển của vấn đề Biển Đông thành ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất (1974 - 1990, khi Chiến tranh lạnh kết thúc): Bản chất vấn đề Biển Đông trong giai đoạn này cơ bản chỉ là tranh chấp lãnh thổ, chủ yếu liên quan giữa một số nước trong khu vực và Trung Quốc.
Giai đoạn thứ hai (1990 - 2010): Bản chất vấn đề Biển Đông mở rộng từ tranh chấp lãnh thổ trở thành vấn đề an ninh khu vực. Các nước xung quanh Biển Đông trong thời gian này liên tục đưa ra những yêu sách về quyền chủ quyền ở Biển Đông, dẫn đến hình thành những khu vực biển chồng lấn rộng lớn. Từ đây, Biển Đông đã trở thành một vấn đề quan trọng trong quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc. Các bên liên quan tới vấn đề Biển Đông bắt đầu sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để bảo vệ lợi ích của mình, bao gồm cả quân sự, chính trị, ngoại giao, pháp lý...
Giai đoạn thứ ba (từ năm 2010 đến nay): Tình hình Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp khi Trung Quốc gia tăng các đòi hỏi chủ quyền vô lý, cải tạo các cấu trúc địa lý thành đảo nhân tạo và quân sự hóa trái phép. Bản chất vấn đề Biển Đông được mở rộng hơn, trở thành tâm điểm tập hợp lực lượng và cạnh tranh giữa các nước lớn. Các nước ngoài khu vực, đặc biệt là Mỹ, Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a... bắt đầu can dự vấn đề Biển Đông nhân danh an ninh, an toàn hàng hải, hàng không và bằng nhiều biện pháp khác nhau, chủ yếu là thông qua các biện pháp ngoại giao đa phương và trên thực địa; khía cạnh an ninh được mở rộng cả ở trên biển và trên không.
Như vậy, xét về bản chất, vấn đề Biển Đông hiện nay bao gồm ba lớp: Lớp trong cùng là tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa Trung Quốc và một số nước trong khu vực, giữa các nước ASEAN có chồng lấn quyền chủ quyền trên Biển Đông. Lớp giữa là vấn đề an ninh khu vực giữa ASEAN và Trung Quốc. Lớp ngoài cùng là cạnh tranh chiến lược và tập hợp lực lượng giữa các nước lớn. Tình hình Biển Đông những năm qua căng thẳng hơn, phức tạp hơn, gia tăng nhanh chóng cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng của các sự cố; phạm vi các sự cố trên biển, trên không liên tục được mở rộng sâu xuống phía Nam và lên cả biển Hoa Đông; gia tăng đáng kể số bên liên quan tới tranh chấp, nhất là sự tham gia của các nước lớn ở những mức độ khác nhau; có xu hướng quân sự hóa và bán quân sự hóa rõ rệt; tính chất của vấn đề Biển Đông ngày càng thách thức luật pháp quốc tế, ngay cả khi phán quyết của Tòa Trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 đã được đưa ra; vai trò của ASEAN còn hạn chế, các giải pháp ở cấp độ khu vực chưa có hiệu quả.
Với việc Nhóm các nền công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G-7) nhiều lần ra tuyên bố chung về vấn đề an ninh, an toàn hàng hải, trong đó đề cập đến vấn đề Biển Đông và Tòa Trọng tài ra phán quyết ngày 12-7-2016 cho thấy, vấn đề Biển Đông đã được quốc tế hóa ở mức cao nhất từ trước tới nay. Vấn đề Biển Đông đã có bước ngoặt lớn về mặt pháp lý và ngoại giao. Thực tiễn tình hình cho thấy, Trung Quốc tiến hành cải tạo các cấu trúc đá thành đảo nhân tạo một cách phi pháp, mưu toan tạo ra “việc đã rồi” thay đổi nguyên trạng trên thực địa trái phép, trong khi Phi-líp-pin đã cơ bản thay đổi nguyên trạng về pháp lý. Gần đây tình hình Biển Đông lắng dịu, chủ yếu do sự điều chỉnh chính sách của Trung Quốc nhằm tranh thủ sự hợp tác của chính quyền mới ở Phi-líp-pin, xoa dịu dư luận khu vực để tập trung đối phó với Mỹ, nhất là trong cuộc chiến thương mại và duy trì ổn định nội bộ. Các nước trong khu vực, như Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a cũng điều chỉnh chính sách để tranh thủ các dự án hợp tác với Trung Quốc về ngắn hạn. Trung Quốc cũng đã tuyên bố phấn đấu hoàn thành xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) trong vòng 3 năm. Do vậy, tình hình Biển Đông được dự báo từ nay đến hết năm 2020 sẽ có phần dịu đi.
Việt Nam bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong bối cảnh mới
Bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là mục tiêu, là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Từ thực tiễn bảo vệ chủ quyền biển, đảo thời gian qua, có thể rút ra một số điểm đáng chú ý sau:
Thứ nhất, định hình được một lập trường chung, nhất quán, bao gồm 4 nội hàm then chốt: 1- Giải quyết hòa bình tranh chấp. Giương cao ngọn cờ hòa bình là công cụ quan trọng nhất để tập hợp lực lượng trong bối cảnh hiện nay; 2- Căn cứ để giải quyết hòa bình tranh chấp là luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS năm 1982; 3- Thực thi nghiêm chỉnh Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và hướng tới COC. Đây là lợi ích chung của ASEAN và cả khu vực. 4- Trong khi tìm kiếm một giải pháp tổng thể cuối cùng có thể chấp nhận được đối với tất cả các bên, các bên liên quan không được làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Thứ hai, xử lý khéo léo quan hệ với Trung Quốc nhằm quản lý bất đồng trên biển và ổn định quan hệ với Trung Quốc bằng nhiều biện pháp khôn khéo, mềm dẻo, vừa có lý, vừa có tình, nhất là thông qua các chuyến thăm cấp cao giữa hai nước.
Việt Nam hiện là nước duy nhất ở khu vực đã phân định xong biên giới biển trong Vịnh Bắc Bộ và có rất nhiều kinh nghiệm phong phú trong giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ đối với Trung Quốc. Tháng 10-2011, hai nước đã ký kết Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo việc giải quyết các vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc (gọi tắt là Tuyên bố 6 điểm). Đây là nhận thức chung quan trọng giữa hai nước để quản lý xung đột và từng bước tiến tới giải quyết vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, không để vấn đề này ảnh hưởng tới các lĩnh vực hợp tác khác.
Trong quan hệ song phương, Việt Nam và Trung Quốc đã nỗ lực mở ra hai kênh đàm phán song phương, đó là kênh đàm phán về các vấn đề ít nhạy cảm trên biển và đàm phán về phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, từ đó góp phần quan trọng vào việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định để phục vụ mục tiêu phát triển. Hai bên tiếp tục đẩy mạnh phát triển quan hệ sâu rộng trên tất cả các mặt, nhất là về kinh tế - thương mại. Do vậy, quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - Trung Quốc phát triển tích cực và đã cán mốc 100 tỷ USD thương mại song phương vào năm 2016, sớm hơn một năm so với thỏa thuận của hai nước.
Thứ ba, tham gia tích cực và sử dụng các cơ chế của ASEAN. Do ASEAN có lợi ích to lớn, sát sườn trong vấn đề Biển Đông và không phải tất cả các nước thành viên ASEAN đều có lợi ích trực tiếp trong vấn đề Biển Đông, nên Việt Nam đã phải hết sức kiên trì và nỗ lực khi xử lý vấn đề Biển Đông trong khuôn khổ ASEAN ở cả hai cấp độ.
Trong nội bộ ASEAN đã cơ bản hình thành các nhóm nước có quan điểm lập trường tương tự nhau (ASEAN-4, ASEAN-6...), góp phần xây dựng và duy trì được lập trường chung trong ASEAN về vấn đề Biển Đông, phản ánh được lợi ích của Việt Nam. Sự khác biệt trong ASEAN là khó tránh khỏi do lợi ích khác nhau, quan điểm khác nhau và sự tác động từ bên ngoài, nhưng một khi ASEAN đã hình thành tiếng nói đa số, các nước còn lại đều nhất trí chấp nhận theo nguyên tắc đồng thuận.
Trong các quan hệ đối ngoại của ASEAN, Việt Nam đã góp phần duy trì được vai trò trung tâm của ASEAN, nêu được vấn đề Biển Đông ở mức phù hợp, góp phần cùng ASEAN quản lý các mối quan hệ đối ngoại, nhất là tại các cơ chế quan trọng, như Cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+)... Thực tế cho thấy, tại các diễn đàn này, hầu hết các nước đều chủ động đề cập vấn đề Biển Đông ở những mức độ khác nhau. Tiếng nói của các nước đối tác rất quan trọng, góp phần cùng ASEAN duy trì sự quan tâm về vấn đề này.
Thứ tư, đề cao vấn đề tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không. Việt Nam đề cao tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không ở khu vực, tôn trọng luật pháp và các chuẩn mực quốc tế và tranh thủ sự hợp tác với các nước trên thế giới để bảo vệ các lợi ích chính đáng của mình. Đây là mẫu số chung quan trọng giữa Việt Nam và cộng đồng quốc tế.
Thứ năm, xử lý khôn khéo, kịp thời các vụ, việc phát sinh, đồng thời tăng cường củng cố thực lực quốc phòng, năng lực của các lực lượng trên biển. Nhiều vụ, việc phát sinh đã được xử lý kiên quyết, khéo léo theo phương châm “biến đại sự thành tiểu sự, biến tiểu sự thành vô sự”, không để ảnh hưởng tới tổng thể chính sách đối ngoại của đất nước.
Một vài suy nghĩ trong thời gian tới
Bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay đang và sẽ có những thay đổi sâu rộng. Về ngắn hạn, tình hình khu vực được dự báo vẫn tương đối ổn định, nhưng về trung và dài hạn, ngày càng xuất hiện nhiều yếu tố rủi ro, khó lường, nhất là về cạnh tranh giữa các nước lớn ở khu vực. Bên cạnh chiến lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo đã được định hình với năm trụ cột như đã nêu trên, cần tính tới một số điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới.
Một là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, quán triệt tình hình mới, đặc biệt là tổ chức rút kinh nghiệm một cách khách quan, khoa học trong cách xử lý các vấn đề biển, đảo của chúng ta thời gian qua.
Hai là, trong xử lý vấn đề biển, đảo, quan trọng nhất là sự thống nhất và đoàn kết nội bộ từ Trung ương tới từng người dân. Công tác thông tin, tuyên truyền cần được duy trì thường xuyên, liên tục và kịp thời để người dân hiểu và nắm được tình hình, các chủ trương, biện pháp mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiến hành để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tránh sự manh động, tụ tập đông người...
Ba là, phán quyết của Tòa Trọng tài theo UNCLOS năm 1982 đã làm rõ khá nhiều điểm. Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu để ứng dụng những kết quả này trong thời gian tới, nhất là chuẩn bị cho giai đoạn phân định biển về lâu dài; đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý, luật sư về luật biển nói riêng cũng như trong các lĩnh vực công pháp quốc tế, tư pháp quốc tế nói chung.
Bốn là, trên thực địa cũng như trên mặt trận ngoại giao, cần tiếp tục công khai hóa, kết hợp chặt chẽ giữa ngoại giao, báo chí truyền thông và quốc phòng - an ninh; tiếp tục phát huy vai trò của giới học giả...
Năm là, trong xử lý quan hệ đối với Trung Quốc, tiếp tục sử dụng các biện pháp, chính sách ngoại giao, đặc biệt là các chuyến thăm cấp cao để ổn định tình hình, giương cao ngọn cờ hòa bình và UNCLOS để tập hợp lực lượng, duy trì các kênh đàm phán ngoại giao và đối thoại song phương; tiếp tục thúc đẩy quan hệ thương mại, đầu tư; thúc đẩy giao lưu nhân dân, giao lưu biên giới và tuần tra chung cả trên bộ và trên biển để hạn chế, phòng ngừa các sự cố ngoài ý muốn.
Sáu là, ASEAN vẫn là một kênh rất quan trọng trong công tác bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta, vì vậy, cần tiếp tục tăng cường tham vấn, trao đổi về vấn đề Biển Đông ở các cơ chế đối ngoại của ASEAN để duy trì sự quan tâm của các nước lớn ngoài khu vực, phối hợp tốt với các thành viên ASEAN để thúc đẩy xây dựng thành công một COC hiệu quả, có tính ràng buộc trong thời gian tới và duy trì đoàn kết, nhất trí trong ASEAN...
Bảy là, trong tập hợp lực lượng trên phạm vi toàn cầu, vấn đề Biển Đông hiện nay đã được quốc tế hóa ở mức cao nhất, cần nêu vấn đề Biển Đông cho phù hợp với từng diễn đàn; tiếp tục tận dụng cơ hội để trao đổi thông tin, tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ của cộng đồng quốc tế để xây dựng lực lượng, phát triển các năng lực trên biển về mọi mặt, như dự báo thời tiết, chấp pháp trên biển, cứu hộ, cứu nạn./.
TS. Trần Việt Thái, Học viện Ngoại giao/tapchicongsan.org.vn