Thứ Bảy, 21/12/2024
Bài 1: Cứ liệu lịch sử

Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là các hòn đảo vô chủ cho đến thế kỷ XVII. Lúc bấy giờ, hai quần đảo được thể hiện liền một dải, bao gồm cả Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa và ban đầu được người Việt gọi chung một tên nôm là Bãi Cát Vàng (thể hiện trong bản đồ cổ của Việt Nam mang tên “Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” do nhà địa lý Đỗ Bá biên soạn và hoàn thành năm 1686).

Vào nửa đầu thế kỷ XVII, Chúa Nguyễn tổ chức “đội Hoàng Sa” lấy người từ xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Nghĩa ra quần đảo Hoàng Sa thâu lượm hàng hóa, khí cụ trên các tàu mắc cạn và đánh bắt hải sản quý hiếm mang về dâng nộp.

Lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa được nhiều triều đình phong kiến trước đây xác lập, thực thi nhất quán và liên tục; cùng bao công sức, thậm chí cả tính mạng của nhiều thế hệ người dân đất Việt.

Chúa Nguyễn lại tổ chức thêm “đội Bắc Hải” lấy người thôn Tứ Chính hoặc xã Cảnh Dương, phủ Bình Thuận, cấp giấy phép ra quần đảo Trường Sa với cùng nhiệm vụ như đội Hoàng Sa.

Các hoạt động này được ghi nhận trong nhiều tài liệu lịch sử, điển hình sau:

Thư tịch cổ

+ “Phủ biên tạp lục” - cuốn sách do nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) biên soạn năm 1776 là tài liệu cổ xưa, chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc phủ Quảng Nghĩa.

Lê Quý Đôn miêu tả tỉ mỉ tình hình địa lý, tài nguyên ở Hoàng Sa và Trường Sa và công việc khai thác của chúa Nguyễn đối với 2 quần đảo này.


 Một bản khắc mộc bản về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa

Sách chép: “Ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Nghĩa có núi gọi là cù lao Ré, rộng hơn 30 dặm, có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu, ra biển bốn canh thì đến, phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa. Trước kia có nhiều hải vật và hóa vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi ba ngày đêm mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải.”

“ Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ đến tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển ba ngày ba đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc hoa, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về...

Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu và các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm hóa vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản...”

+ “Đại Việt sử ký tục biên” (1676-1789) là bộ chính sử do Quốc sử viện thời Lê-Trịnh biên soạn, trong đó đoạn ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa căn bản không khác ghi chép của Lê Quý Đôn.

Ý nghĩa của “Đại Việt sử ký tục biên” chính là tác phẩm này đã biến ghi chép khoa học, khách quan của Lê Quý Đôn thành một nội dung của bộ Quốc sử, chuyển tinh thần cơ bản của bản viết tay của Lê Quý Đôn thành bản khắc in chính thức trên danh nghĩa quốc gia.


 Một bản khắc mộc bản về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa

+ “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú là bộ bách khoa thư lớn của thế kỷ XIX, được hoàn thành vào năm 1821 có phần dư địa chí chép về Hoàng Sa từ địa thế, sản vật đến việc tổ chức Đội Hoàng Sa.

Sách viết: “Xã An Vĩnh, huyện Bình Dương ở gần biển. Ngoài biển phía Đông Bắc có đảo (Hoàng Sa), nhiều núi linh tinh, đến hơn 130 ngọn núi. Đi từ chỗ núi (chính) ra biển (sang các đảo khác) ước chừng hoặc một ngày hoặc vài trống canh.

Trên núi có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước 30 dặm, bằng phẳng rộng rãi. Trong bãi có dòng nước trong suốt đến đáy. Sườn đảo có vô số yến sào, các thứ chim có đến hàng nghìn vạn con, thấy người vẫn cứ đỗ quanh, không bay tránh…

Các đời chúa Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 người, người làng An Vĩnh thay phiên nhau đi lấy những hải vật. Hằng năm cứ đến tháng 3, khi nhận được mệnh lệnh sai đi, phải đem đủ 6 tháng lương, chở 5 chiếc thuyền nhỏ ra biển, 3 ngày 3 đêm mới đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ tìm kiếm các thứ… Đến tháng 8 thì đội ấy lại về, vào cửa Yêu Môn đến thành Phú Xuân, đưa nộp.”

+ “Đại Nam thực lục chính biên” là bộ sử ký do Quốc sử quán triều đình nhà Nguyễn soạn, viết về các đời vua Nguyễn. Phần viết về đời Vua Gia Long (1802-1819), Vua Minh Mệnh (1820-1840), Vua Thiệu Trị (1841-1847) được soạn xong năm 1848, ghi sự kiện Vua Gia Long chiếm hữu các đảo Hoàng Sa; sự kiện Vua Minh Mệnh cho xây miếu, dựng bia, trồng cây, đo đạc, vẽ bản đồ các đảo này.

Năm 1815, Vua Gia Long “cử Phạm Quang Ảnh dẫn đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để khảo sát và đo đạc đường biển.”

Năm 1816, Vua Gia Long “lệnh cho thủy quân cùng đội Hoàng Sa ra Hoàng Sa để khảo sát và đo đạc đường biển.”

Năm 1833, Vua Minh Mệnh chỉ thị cho Bộ Công chuẩn bị thuyền sang năm sẽ phái tới Hoàng Sa dựng miếu, lập bia, trồng nhiều cây cối.

Năm 1834, Vua Minh Mệnh cử đội trưởng giám thành Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người ra Hoàng Sa vẽ bản đồ.

Năm 1835, Vua Minh Mệnh sai cai đội thủy quân Phạm Văn Nguyên đem lính và thợ giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Nghĩa, Bình Định, chuyên chở vật liệu đến Hoàng Sa dựng miếu. Bên trái miếu dựng bia đá, phía trước miếu xây bình phong.


 Ông Đặng Thanh Tùng, Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước
trao 19 Châu bản triều Nguyễn nói về việc xác lập và thực thi chủ quyền
của triều đình nhà Nguyễn trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
 cho ông Võ Ngọc Đồng, Chủ tịch UBND huyện Hoàng Sa

Năm 1836, chuẩn y lời tâu của Bộ Công, Vua Minh Mệnh sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền ra Hoàng Sa đo đạc, vẽ bản đồ. Yêu cầu của công việc đo đạc, vẽ bản đồ đã được “Đại Nam thực lục chính biên” ghi lại rất chi tiết:

“Không cứ là đảo nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến cũng xem xét xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển chung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tận đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại xét ngày khởi hành từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào đường đi tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ biển, đối thẳng là vào tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm, nhất nhất nói rõ, đem về dâng trình.”

+ “Đại Nam nhất thống chí” là bộ sách địa lý chính thức của nước Việt Nam, do Quốc sử quán thời Tự Đức biên soạn từ năm 1865-1910. Phần nói về tỉnh Quảng Ngãi xác định các đảo Hoàng Sa thuộc địa phận tỉnh Quảng Ngãi và công việc khai thác các đảo này vẫn tiếp tục, việc quản lý được tăng cường dưới các đời Vua Gia Long và Minh Mệnh.

Sách viết: “Phía đông tỉnh Quảng Ngãi, có đảo cát (tức đảo Hoàng Sa), kiền cát với biển làm hào, phía Tây Nam miền sơn man, có lũy dài vững vàng, phía nam liền với tỉnh Bình Định, có đèo Bến Đá chắn ngang, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, có ghềnh Sa Thổ làm giới hạn.”

“Đầu đời vua Gia Long, phỏng theo lệ cũ đặt đội Hoàng Sa, sau lại bỏ; đầu đời Minh Mệnh, thường sai người đi thuyền công đến đây thăm dò đường biển, thấy một nơi có cồn cát trắng chu vi 1070 trượng, cây cối xanh tốt, giữa cồn cát có giếng, phía Tây Nam còn có ngôi miếu cổ, không rõ dựng từ thời nào, có bia khắc 4 chữ “Vạn lý Ba Bình” (muôn dặm sóng yên).

Cồn cát này xưa gọi là Phật Tự Sơn, phía Đông và phía Tây đảo đều có đá san hô nổi lên một cồn chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 2 thước, ngang với cồn cát gọi là Bàn Than Thạch. Năm Minh Mệnh thứ 16 sai thuyền công chở gạch đá đến đấy xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau. Binh phu đắp nền miếu đào được đồng lá và gang sắt có đến hơn 2000 cân.”

Các bản đồ cổ

+ Theo “Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” của Đỗ Bá, tự Công Đạo sưu tầm, biên soạn và hoàn thành năm 1686, ít nhất đến thế kỷ XVII, bản đồ Việt Nam đã gọi hai quần đảo bằng cái tên chung là Bãi Cát Vàng và ghi nó vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Nghĩa.

Lúc đó, Bãi Cát Vàng còn được gọi bằng nhiều tên khác như: Hoàng Sa, Cồn Vàng, Trường Sa, Đại Hoàng Sa, Đại Trường Sa, Vạn lý Trường Sa… và ngày nay là Hoàng Sa và Trường Sa.


  Tập Atlas Thế giới của nhà địa lý học kiệt xuất người Bỉ
Philippe Vandermaelen (1795 - 1869),
 thành viên Hội địa lý Paris, được xuất bản năm 1827
khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam

Trong lời chú giải bên trên bản đồ có nói rõ việc khai thác “Bãi Cát Vàng” của chúa Nguyễn như sau: “… Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa biển, từ cửa biển Đại Chiêm (1) đến cửa Sa Vinh (2). Mỗi lần có gió tây nam thì thương thuyền các nước đi ở phía trong trôi dạt ở đấy; có gió đông bắc thì thương thuyền chạy ở ngoài cũng trôi dạt ở đấy, đều cùng chết đói hết cả, hàng hóa thì đều để nơi đó. Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy lấy hàng hóa, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn…”

+ “Giáp Ngọ bình Nam đồ” - bản đồ xứ Đàng Trong do Đoan quận công Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774, Bãi Cát Vàng cũng được vẽ là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam.

+ “Đại Nam nhất thống toàn đồ” hoàn thành trong khoảng năm 1838 dưới thời vua Minh Mệnh. Trên bản đồ có ghi hai tên “Hoàng Sa” và “Vạn lý Trường Sa” thuộc lãnh thổ Việt Nam.

+ “An Nam đại quốc họa đồ” của Giám mục Jean Louis Taberd năm 1838, trong đó có vẽ 9 dấu chấm nhỏ tượng trưng cho khu vực được đánh dấu là Paracels seu Cát Vàng (Paracels hay là Cát Vàng).

+ “Bộ Atlas thế giới” xuất bản ở Brussels 1827

“Bộ Atlas thế giới” của Philippe Vandermaelen (1795-1869) - nhà địa lý học kiệt xuất, thành viên Hội Địa lý Paris, xuất bản năm 1827 tại Brussels là một bằng chứng hùng hồn về giá trị pháp lý quốc tế cao, bổ sung vào kho bằng chứng khổng lồ chứng minh Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.

Theo tập bản đồ này, Việt Nam được giới thiệu trong các tấm bản đồ số 97, 105, 106, 110 đều có ghi chú rõ ràng, quần đảo Hoàng Sa (Paracels) thuộc chủ quyền của Đế chế An Nam (Empire d’An-nam) (3).

Đặc biệt, tờ bản đồ Partie de la Cochinchine (4) (tờ số 106-Châu Á) là bản đồ đầu tiên đã vẽ một cách tuyệt đối chính xác vị trí (kinh độ, vĩ độ), đặc điểm địa lý, tên gọi phương Tây của các đảo lớn nhất và quan trọng nhất trong quần đảo Hoàng Sa.

Bản đồ đặt trong khu vực Cochinchine là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của Đế chế An Nam, minh chứng một cách rõ ràng và chuẩn xác chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa đã được quốc tế ghi nhận.

“Bộ Atlas thế giới” xuất bản ở Brussels 1827 hiện do Trung tâm Lưu trữ quốc gia I thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước - Bộ Nội vụ bảo quản và lưu giữ từ năm 2014.

Văn bản hành chính cổ

Các Châu bản triều Nguyễn là bằng chứng rõ ràng về quá trình thực thi chủ quyền của các nhà nước phong kiến Việt Nam ở hai quần đảo này. Điển hình như:

+ Các bản tấu của Thủ ngự Đà Nẵng về việc thuyền của Pháp mắc cạn ở Hoàng Sa (27/6/1830 - năm Minh Mệnh thứ 11)

+ Bản dụ của vua Minh Mệnh thứ 16 (11/7/1835) và vua Minh Mệnh thứ 18 (13/7/1837) về các đoàn đi công vụ ở Hoàng Sa

+ Năm Minh Mệnh thứ 17 (1836), Bộ Công dâng sớ lên tâu vua rằng: “Bản quốc Hải cương Hoàng Sa xứ, tối thị hiểm yếu” (Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực biển nước ta, hết sức hiểm yếu).

+ Các bản tấu của Bộ Công (13/7/1837 - năm Minh Mệnh thứ 18) về việc phạt những người đi Hoàng Sa không lập xong bản đồ, về việc phái đoàn công vụ lên đường ra Hoàng Sa nhưng do gặp gió lớn mà không xuất phát được...

+ Đặc biệt có tờ tấu của Bộ Công (21/6/1838 - năm Minh Mệnh thứ 19) cho biết đoàn khảo sát Hoàng Sa trở về báo cáo đã đến được 25 đảo thuộc 3 vùng, (trong đó có 12 hòn đảo đoàn đến kiểm tra lại, còn 13 đảo đoàn chưa từng đến.


 Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa được tổ chức tại huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi)
theo nghi thức truyền thống, nhằm tái hiện những đội thuyền năm xưa ra đi
bảo vệ vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa)

“Theo viên dẫn đường Vũ Văn Hùng thì toàn bộ xứ Hoàng Sa có 4 vùng, lần này khảo sát được 3 vùng, còn một vùng ở phía Nam, nơi này cách nơi kia khá xa, gió Nam lại thổi mạnh, việc khởi hành đến đó không tiện, phải đợi gió thuận thì muộn, xin đợi đến sang năm cử thuyền đến đó. Lại xem xét 4 bản đồ mang về (có 3 bức vẽ riêng từng vùng, 1 bức vẽ chung), cùng một bản nhật ký cũng chưa được tu sửa hoàn chỉnh, xin cho Bộ Thần thẩm tra kỹ và sức cho họ chỉnh sửa hoàn thiện để dâng trình.”

Tư liệu từ nhiều nhà hàng hải, giáo sỹ phương Tây

Sách trắng của Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố năm 1982 dẫn các nguồn tư liệu lịch sử có ghi rõ một số sự kiện như sau:

Một giáo sỹ phương Tây đi trên tàu Amphitrite từ Pháp sang Trung Quốc năm 1701, viết trong một lá thư rằng: “Paracel là một quần đảo thuộc vương quốc An Nam.”

J.B. Chaigneau, cố vấn của vua Gia Long, năm 1820 đã viết trong phần chú thích bổ sung vào cuốn Hồi ký về nước Cochinchine: “Nước Cochinchine mà nhà vua bấy giờ đã lên ngôi hoàng đế gồm xứ Cochinchine và xứ Đông Kinh (5)… một vài đảo có dân cư không xa bờ biển và quần đảo Paracel do những đảo nhỏ, ghềnh và đá không có dân cư hợp thành…”

“Ghi chép về địa lý nước Cochinchine” xuất bản năm 1837, cũng mô tả “Pracel hay Paracels” là phần lãnh thổ nước Cochinchine và nói rõ người Cochinchine gọi Pracel hay Paracels là “Cát Vàng.”


 Khách tham quan triển lãm bản đồ và trưng bày tư liệu ‘Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam -
Những bằng chứng lịch sử và pháp lý’ tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 11/9/2019

Giám mục J.L.Taberd, trong bài

Trong “An Nam đại quốc họa đồ” xuất bản năm 1838, ông đã vẽ một phần của Paracel và ghi “Paracel hay Cát Vàng” (Paracel seu Cát Vàng) ở ngoài các đảo ven bờ miền trung Việt Nam, vào khu vực quần đảo Hoàng Sa hiện nay.

Trong bài “Địa lý vương quốc Cochinchina” của Gutzlaff xuất bản năm 1849, có đoạn nói rõ Paracels thuộc lãnh thổ Việt Nam và chú thích cả tên Việt Nam là “Kát Vàng.”

Như vậy, các sách lịch sử, địa lý cổ của Việt Nam cũng như chứng cứ của nhiều nhà hàng hải, giáo sỹ phương Tây kể trên đã cho thấy, từ lâu và liên tục trong hàng mấy trăm năm, từ triều đại này đến triều đại khác (từ thời chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn) đã thực thi chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa dưới các hình thức và biện pháp khác nhau như thành lập các đội Hoàng Sa, Bắc Hải để vãng thám, kiểm tra kiểm soát; khai thác các sản vật, cứu tàu bị nạn; khảo sát, đo vẽ bản đồ; dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền, trồng cây để cho người qua lại dễ nhận biết...

Các thể lệ tuyển chọn người, chế độ khen thưởng, đãi ngộ đối với các đội đều được quy định rõ ràng. Ví dụ như Vua Tự Đức (1867) đã phong cho những chiến sỹ đội Trường Sa hy sinh danh hiệu “Hùng binh Trường Sa.”

Công việc ở Hoàng Sa và Trường Sa là vô cùng gian nan nguy hiểm, nhiều trường hợp có đi mà không có về. Ý thức được đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm với quê hương đất nước, nhiều người tự nguyện coi đó là trách nhiệm của chính mình.

Lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa được nhiều triều đình phong kiến trước đây xác lập, thực thi nhất quán và liên tục; cùng bao công sức, thậm chí cả tính mạng của nhiều thế hệ người dân đất Việt.


 Chiến sỹ đảo Trường Sa thường xuyên nâng cao cảnh giác,
ngày đêm tuần tra bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc

------------------------------------

(1) Cửa Đại Chiêm nay là cửa Đại, thuộc tỉnh Quảng Nam

(2) Cửa Sa Vinh nay là cửa Sa Huỳnh, thuộc tỉnh Quảng Ngãi

(3) “Đế chế An Nam” hay “Vương quốc An Nam” chỉ nước Việt Nam thời bấy giờ.

(4) Danh từ Cochinchine (tiếng Pháp) hoặc Cochinchina (tiếng Anh) có hai nghĩa tùy theo văn cảnh: a) Nước Việt Nam thời bây giờ, dịch là nước Cochinchine; b) Xứ Đàng Trong thời bấy giờ, dịch là xứ Cochinchine.

(5) Tức Đàng ngoài

(TTXVN)

 

 

Gửi cho bạn bè

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Xem nhiều nhất