Bất cứ thể chế chính trị nào trên thế giới hiện nay đều xác định trung tâm quyền lực chính trị của hệ thống chính trị là nhà nước. Sự chi phối mọi hoạt động đối với nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp) của các đảng phái trong xã hội thể hiện bằng các hình thức khác nhau và mức độ khác nhau vì lợi ích của các giai cấp mà đảng phái đó đại diện. Cho dù là nhà nước “tam quyền phân lập” hay nhà nước trong các thể chế chính trị khác thì cũng đều chú trọng đặc biệt đến việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế nhằm kiểm soát quyền lực đối với từng chủ thể trong hệ thống chính trị và đối với toàn bộ hệ thống chính trị.
Lịch sử cách mạng Việt Nam 89 năm qua đã khẳng định những thắng lợi vĩ đại trong cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhân dân ta giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội đều gắn liền với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, minh chứng mối quan hệ mật thiết của nhân dân đối với Đảng. Hiến pháp năm 2013 xác định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Trong điều kiện đảng duy nhất cầm quyền, các quyết định của Đảng đều liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội và đảng viên của Đảng nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước. Điều đó dễ dẫn đến phát sinh tiêu cực nếu không có cơ chế kiểm tra, giám sát khả thi.
Khác với các chính thể “tam quyền phân lập”, nước ta lựa chọn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Nét đặc thù của thể chế chính trị này là việc xác lập mối quan hệ mật thiết giữa các chủ thể trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Cơ chế này phản ánh những mối quan hệ cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trong đó mỗi chủ thể có vai trò, vị trí khác nhau, phối hợp với nhau, phát huy tính hiệu quả của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được chế định trong Hiến pháp, pháp luật. Việc kiểm soát quyền lực giữa các chủ thể là tất yếu nhằm bảo đảm và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước trong quản lý xã hội, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Kiểm soát quyền lực trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” không chỉ với từng tổ chức mà còn ở quan hệ giữa các tổ chức với nhau trong hệ thống chính trị.
Kiểm soát quyền lực trong từng tổ chức của hệ thống chính trị
Thứ nhất, kiểm soát quyền lực trong Đảng.
Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền, tức là Đảng có quyền lực chính trị, thậm chí trong một số trường hợp, quyền lực chính trị của các tổ chức đảng rất lớn, như các quyết định về đường lối của đất nước, chủ trương, giải pháp trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhất là trong công tác tổ chức, cán bộ. Vì thế, rất cần xây dựng và thực thi ngay những thiết chế về kiểm soát quyền lực trong nội bộ Đảng, bảo đảm mọi quyền lực chính trị của tổ chức đảng có thẩm quyền đều phải được quy định bằng thể chế lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Chỉ khi có cơ chế kiểm soát quyền lực đối với tổ chức đảng, đảng viên thì mới chủ động phòng ngừa các sai phạm có thể xảy ra và xử lý kỷ luật đối với những trường hợp lạm dụng quyền lực, độc đoán, gia trưởng, tham nhũng, “lợi ích nhóm”.
Đối với tổ chức đảng, đảng viên, Đảng thực hiện cơ chế “tự kiểm soát” bằng các hình thức sinh hoạt đảng, tự phê bình và phê bình, giữ nghiêm kỷ luật đảng. Qua sinh hoạt đảng, các tổ chức đảng, đảng viên, nhất là trong các cơ quan nhà nước kiểm soát thường xuyên lẫn nhau việc thực hiện quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Thường xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng vì “Đảng mạnh là do mỗi chi bộ mạnh. Chi bộ mạnh là do đảng viên đều tốt”.
Về công tác kiểm tra, không thể phủ nhận vai trò của ủy ban kiểm tra đảng và các cấp ủy đảng trong thời gian gần đây về phòng, chống tham nhũng và chủ trương tăng thẩm quyền cho ủy ban kiểm tra của Đảng. Tuy nhiên, cần có giải pháp đột phá về thể chế nhằm bảo đảm tính độc lập, khách quan, khả thi của ủy ban kiểm tra, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác kiểm tra. Đồng thời, vẫn cần có quy chế quy định trách nhiệm phối hợp, sự giám sát của cấp ủy cùng cấp, sự kiểm tra của ủy ban kiểm tra cấp trên bằng cơ chế kiểm soát lẫn nhau để tránh những tiêu cực có thể xảy ra.
Về công tác cán bộ, để chống “chạy chức”, “chạy quyền” trong công tác cán bộ, “Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền, theo hướng quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó; phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm tập thể, cá nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc và có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm”(1).
Thứ hai, kiểm soát quyền lực trong Nhà nước.
Ở nước ta, “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(2). Kiểm soát quyền lực nhà nước làm cho bộ máy nhà nước không những có khả năng kiểm soát được xã hội mà còn tự kiểm soát được chính mình. Do đó, các cơ quan nhà nước kiểm soát quyền lực lẫn nhau là một trong những phương thức quan trọng để kiểm soát quyền lực nhà nước. Các cơ quan quyền lực nhà nước vừa thực thi quyền lực nhà nước, vừa thống nhất phối hợp hành động, vừa kiểm soát lẫn nhau để không một cơ quan nào có thể lạm quyền, tiếm quyền hoặc buông quyền.
Kiểm soát quyền lực trong Nhà nước thực chất là kiểm soát quyền lực giữa các thành tố cấu thành quyền lực nhà nước: giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp và giữa quyền lực nhà nước ở Trung ương và địa phương. Đây là mối quan hệ giữa kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động hữu hiệu nhất đối với bộ máy nhà nước. Cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở tất cả các cấp, trước hết là các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp.
Để kiểm soát được quyền lực nhà nước, cần đổi mới mạnh mẽ kỹ thuật, quy trình lập pháp và hành pháp theo hướng dân chủ, khách quan, vừa phối hợp - hợp tác, vừa kiểm soát lẫn nhau. Quốc hội là cơ quan lập pháp, thực hiện quyền ban hành và giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội. Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, quản lý xã hội bằng pháp luật. Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp, có quyền xét xử đối với bất kỳ ai nếu vi phạm luật, kể cả đại biểu Quốc hội, thành viên Chính phủ theo nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm kiểm soát các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước và cả hoạt động tư pháp.
Để thực sự kiểm soát quyền lực lẫn nhau, cần giảm thiểu số thành viên Chính phủ, thành viên các cơ quan tư pháp tham gia Quốc hội và tăng đại biểu chuyên trách để khách quan hóa các hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ, tăng tính chuyên nghiệp của đại biểu và tăng tính độc lập của các cơ quan tư pháp.
Thứ ba, kiểm soát quyền lực trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội là tổ chức đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước; cổ vũ động viên đoàn viên, hội viên thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội cũng là những tổ chức có quyền lực chính trị theo quy định của pháp luật. Đồng thời, với tư cách là một thành viên trong hệ thống chính trị, việc quản lý nội bộ của từng tổ chức cũng phải được quan tâm nhằm thực hiện đúng đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các quy định của điều lệ đối với mỗi tổ chức. Do đó, các cơ quan kiểm tra của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội phải kiểm soát quyền lực trong nội bộ của từng tổ chức mình, thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các tổ chức, cá nhân, kể cả người đứng đầu tổ chức trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Thực hiện tốt việc kiểm soát quyền lực trong nội bộ còn làm cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội tránh được nguy cơ hành chính hóa, hoạt động kém hiệu quả, ít tác dụng, tiêu tốn ngân sách nhà nước.
Kiểm soát quyền lực giữa các chủ thể của hệ thống chính trị
Thứ nhất, kiểm soát quyền lực của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Đảng thực thi quyền lực chính trị của các giai cấp, tầng lớp, lực lượng xã hội mà mình đại diện bằng cách tác động vào Nhà nước, thông qua Nhà nước để thực hiện ý chí của lực lượng xã hội mà mình đại diện. Song, với tư cách là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là chủ thể lãnh đạo trong hệ thống chính trị, Đảng phải thực hiện kiểm soát quyền lực không chỉ đối với Nhà nước mà với cả hệ thống chính trị.
Đảng kiểm soát quyền lực đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội thể hiện ở việc ban hành chủ trương, chính sách để Nhà nước cụ thể hóa bằng các quy định của pháp luật. Đảng cầm quyền có vai trò quyết định trong quá trình xây dựng tổ chức Nhà nước, giới thiệu đảng viên ứng cử giữ các chức vụ quan trọng của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội để thực thi đường lối, chính sách của Đảng.
Trong điều kiện duy nhất cầm quyền, Đảng kiểm soát quyền lực Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội thông qua việc kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, đảng viên thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đảng viên của Đảng trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội có thể bị cách chức bất cứ lúc nào (theo quy định của pháp luật hay điều lệ của đoàn thể) nếu quan liêu, tham nhũng, vi phạm pháp luật đến mức bị xử lý kỷ luật Đảng.
Thứ hai, kiểm soát quyền lực của Nhà nước đối với Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Nhà nước cũng phải kiểm soát quyền lực của Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội bằng pháp luật theo nguyên tắc “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(3). Các tổ chức đảng cũng như các tổ chức khác hoạt động trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đều bình đẳng trước pháp luật và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Những quyết định của Đảng không được trái với các quy định của pháp luật. Đảng không ban hành văn bản nhằm quản lý xã hội nên không thể lẫn lộn giữa quyền lực của Đảng và quyền lực nhà nước. Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước dù chặt chẽ đến mức “hóa thân” vào nhau, nhưng không vì thế mà “Đảng hóa Nhà nước” và không thể “Nhà nước hóa Đảng”. Đảng không lấn sân, bao biện, quyết định thay, làm thay Nhà nước và Nhà nước cũng không dựa dẫm vào Đảng, thụ động, trông chờ vào quyết định của Đảng khi nhiệm vụ đó thuộc thẩm quyền theo luật định. Tuy vậy, giới hạn quyền lực của Đảng với tư cách là lực lượng lãnh đạo và việc quản lý xã hội của Nhà nước trong nhiều trường hợp rất mong manh. Vì thế, cần phải xây dựng quy chế làm việc cụ thể, rõ ràng, minh bạch và cơ chế chịu trách nhiệm trước quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước của mỗi cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, đảng đoàn và ban cán sự đảng.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội khác cũng đều hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Quốc hội đã ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, Luật Thanh niên năm 2005, Pháp lệnh Cựu chiến binh năm 2005, Luật Công đoàn năm 2012. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động nhưng cũng kiểm tra, xử lý những tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật với nguyên tắc mọi tổ chức, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không cho phép bất cứ một tổ chức, cá nhân nào đứng ngoài pháp luật, đứng trên pháp luật, can thiệp làm ảnh hưởng đến sự nghiêm minh của pháp luật cho dù người đó giữ bất cứ chức vụ gì trong các tổ chức của hệ thống chính trị.
Thứ ba, kiểm soát quyền lực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đối với Đảng, Nhà nước.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân có quyền và có trách nhiệm giám sát sự lãnh đạo của Đảng, góp phần kiểm soát quyền lực của Nhà nước thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Hiến pháp cũng đã quy định, Đảng phải “gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”(4).
Nhân dân là người kiểm soát quyền lực nhà nước vì quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Cơ quan nhà nước, công chức, viên chức nhà nước không tự nhiên phát sinh ra quyền lực, mà chỉ nhận sự ủy quyền của nhân dân, thay mặt nhân dân thực thi quyền lực nhà nước để phục vụ nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hệ thống chính trị mà chủ yếu là thông qua Nhà nước, với các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện kiểm soát quyền lực trước hết ở việc phản biện các chính sách của Đảng và Nhà nước. Quy định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” cần phải được triển khai nghiêm túc. Theo đó, nhân dân không chỉ góp ý như trước đây mà còn phản biện xã hội nhằm phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo của các cơ quan đảng, nhà nước; kiến nghị những nội dung thiết thực, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả trong việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Quyền hạn lớn nhất của nhân dân là bầu và bãi miễn các chức vụ quan trọng trong cơ quan nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức thông qua bầu cử dân chủ. Đây là hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước quan trọng nhất. Người dân có quyền, có trách nhiệm và điều kiện để lựa chọn những người đại diện thực hiện sứ mệnh của nhân dân, đồng thời dùng quyền giám sát và quyền bãi miễn khi họ không còn xứng đáng. Với tư cách là đảng chính trị, Đảng lựa chọn đảng viên giới thiệu ra ứng cử, để nhân dân bầu, thực sự bảo đảm và phát huy dân chủ, không phô trương, hình thức và tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp. Vì thế, cần sớm hoàn tất các căn cứ pháp lý để thí điểm nhân dân bầu trực tiếp chủ tịch ủy ban nhân dân xã. Các quy trình bầu cử chủ yếu phải dựa vào nhân dân, xuất phát từ nhân dân, coi trọng sự tín nhiệm của nhân dân chứ không đơn thuần chỉ là một hình thức hợp pháp hóa “quy trình” nhân sự của Đảng.
Nhân dân kiểm soát Nhà nước thông qua hoàn thiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của hội đồng nhân dân các cấp, các công cụ thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của bộ máy nhà nước. Các cơ quan tư pháp giữ vai trò quan trọng, có tính quyết định đến việc giữ vững kỷ cương phép nước trong xã hội trên cơ sở kiểm tra, thanh tra có hiệu lực, hiệu quả việc chấp hành chính sách, pháp luật của cơ quan nhà nước. Vì thế, cần phát huy sức mạnh của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nội bộ cơ quan nhà nước qua việc khuyến khích nhân dân phát hiện, tố cáo những sai phạm của tổ chức, cá nhân trong các cơ quan nhà nước.
Nhân dân kiểm soát quyền lực chính trị thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, qua hệ thống phương tiện truyền thông. Theo đó, báo chí ngày càng giữ vai trò quan trọng trong việc phát huy dân chủ trong nhân dân, tác động trực tiếp đến các tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị trong việc sử dụng và thực thi quyền lực, góp phần quan trọng vào việc kiểm soát quyền lực hiện nay.
Nhân dân còn kiểm soát quyền lực của Đảng và Nhà nước thông qua việc góp ý, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước. Bộ Chính trị ban hành Quy định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, “Về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”. Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 3-10-2017, “Ban hành Hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Nhiều nội dung cụ thể để phát huy vai trò của nhân dân, nhất là trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, như quy định việc công khai “Bản cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, không “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên; bản kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ lãnh đạo, quản lý và người phải kê khai theo quy định”; “Công khai trên các phương tiện truyền thông đại chúng; cổng thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở cơ quan, đơn vị; thông qua họp báo, hội nghị, hội thảo, sinh hoạt chi bộ; thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội; gửi văn bản hoặc bằng các hình thức khác”; tuy nhiên, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn chưa “Lãnh đạo, chỉ đạo việc công khai, minh bạch thông tin, phân công trách nhiệm, quy định rõ nội dung, hình thức, phạm vi, thời gian, địa điểm công khai để nhân dân dễ biết, dễ hiểu, dễ giám sát”(5).
Nhân dân còn theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01-11- 2011, của Ban Chấp hành Trung ương “Về những điều đảng viên không được làm”; Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thư “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, của Bộ Chính trị “Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”; Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”; Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII, về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Quy định thì khá đầy đủ, chặt chẽ nhưng cần rà soát, chỉnh sửa, hoàn thiện cơ chế để bảo đảm tính khả thi, vì trên thực tế, hiệu lực, hiệu quả thực hiện những quy định trên còn chưa cao. Vì thế, không chỉ yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu thật tâm đấu tranh chống tham nhũng mà còn cần đến những cải cách về thể chế với những quy định cụ thể, công khai thông tin, cam kết thực hiện và trách nhiệm giải trình... kèm theo chế tài xử lý vi phạm thì mới thực sự phát huy được vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội để những văn bản nêu trên đi vào cuộc sống. Hơn nữa, một mặt, cần phát huy dân chủ của nhân dân, để nhân dân có điều kiện thực hành dân chủ, hiện thực hóa quyền và lợi ích của mình; mặt khác, cần có những biện pháp chống việc lợi dụng dân chủ để chống phá Đảng, chống phá chế độ, tiếp tay cho các thế lực thù địch./.