Thứ Năm, 2/5/2024
Hậu Giang: Kết quả thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc Khmer, giai đoạn 2018 - 2023

Trên địa bàn tỉnh có các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa, Chăm và một số dân tộc khác sống xen kẽ với nhau trên khắp các huyện, thị, thành phố trên địa bàn tỉnh. Do đó việc chăm lo đời sống vất chất tinh thần cho dân tộc Khmer gắn liền với sự chăm lo chung cho đồng bào DTTS, các chính sách đối với đồng bào DTTS nói chung và dân tộc Khmer nói riêng đều được tỉnh quan tâm, triển khai thực hiện một cách kịp thời và đầy đủ.


 Đường vào chùa BÔRÂYSÊRÂYCHUM, ở ấp 5, xã Xà Phiên, huyện Long Mỹ, rợp bóng cây xanh.



Thực hiện Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/01/2018 của Ban Bí thư, các cấp ủy Đảng đã ban hành nhiều văn bản quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai và tổ chức thực hiện Chỉ thị số 19-CT/TW. Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Công văn số 613-CV/TU ngày 27/02/2018 về thực hiện Chỉ thị số 19-CT/TW trên địa bàn tỉnh phân công rõ trách nhiệm của cấp ủy Đảng, chính quyền, thủ trưởng các sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong tỉnh triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và triển khai kế hoạch, chỉ đạo điều hành, thực hiện các chương trình, dự án, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước. Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành và UBND huyện, thị xã, thành phố tiếp tục triển khai thực hiện các nghị quyết, nghị định của Chính phủ về công tác dân tộc; Chương trình Mục tiêu quốc gia (MTGQ) phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2022 - 2030, giai đoạn I (từ năm 2022 - 2025) trên địa bàn tỉnh.

Cấp ủy các cấp chỉ đạo quán triệt nội dung Chỉ thị số 19-CT/TW sâu rộng trong 100% cán bộ, đảng viên và đã tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức, hành động của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở đối với công tác dân tộc nói chung và công tác đối với đồng bào dân tộc Khmer nói riêng. Những nội dung liên quan chính sách, công tác dân tộc triển khai trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên đạt tỷ lệ 89,4%, đối với nhân dân trong vùng đồng bào dân tộc Khmer đạt tỷ lệ 90,5%.

Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh trong xây dựng nghị quyết, kế hoạch, chương trình công tác hàng năm, giai đoạn, nhiệm kỳ đều lồng ghép nội dung chỉ đạo ưu tiên nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, đồng bào Khmer nói riêng. Tiêu biểu như: Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết số 14/2022/NQ-HĐND ngày 06/7/2022 quy định nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn ngân sách nhà nước thực hiện Chương trình MTQG; Nghị quyết số 22/NQ-HĐND ngày 06/7/2022 về giao kế hoạch vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách trung ương giai đoạn 2021 - 2025 thực hiện 03 Chương trình MTQG; Nghị quyết số 23/NQ-HĐND ngày 06/7/2022 về giao kế hoạch vốn ngân sách nhà nước năm 2022 thực hiện 03 Chương trình MTQG; Nghị quyết số 30/2022/NQ-HĐND ngày 09/12/2022 về ban hành quy định hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất các Chương trình MTQG trên địa bàn tỉnh Hậu Giang. Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 921/KH-UBND ngày 22/5/2018 về triển khai Đề án “Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và tuyên truyền, vận động đồng bào vùng DTTS” trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2018 - 2021, Kế hoạch số 3788/KH-UBND ngày 29/10/2018 triển khai thực hiện các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ đối với đồng bào DTTS gắn với mục tiêu phát triển bền vững trên địa bàn tỉnh Hậu Giang…

Sau khi tổ chức, triển khai thực hiện các chính sách của Trung ương và địa phương về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh đã đạt được những kết quả như sau:

Về phát triển kinh tế, nâng cao đời sống: Năm 2018 thu nhập bình quân đầu người đồng bào dân tộc Khmer 15 triệu đồng/người/năm; năm 2023 là 30 triệu đồng/người/năm, gần bằng 1/2 thu nhập bình quần đầu người/năm của tỉnh. Số lượng lao động là người đồng bào dân tộc Khmer được đào tạo, có việc làm là 1.339 người/45.850 (so sánh với toàn tỉnh từ năm 2018 đến 6 tháng đầu năm 2023). Có 97% đồng bào Khmer được sử dụng điện an toàn, 90% được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; trường, lớp học trong vùng đồng bào dân tộc Khmer được xây dựng kiên cố đạt 70%, có 97% xã trong vùng đồng bào dân tộc Khmer có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa và bê tông hóa, có 65% ấp trong vùng đồng bào dân tộc Khmer có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa. Chính quyền các cấp quan tâm chăm lo cho đời sống của đồng bào dân tộc Khmer thông qua các chương trình hỗ trợ nhà tình thương, vay vốn ưu đãi, hỗ trợ cây, con giống để sản xuất kinh doanh, mở lớp dạy nghề, chuyển giao khoa học kỹ thuật,… nhằm phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm. Hiện còn khoảng hơn 1% số hộ đồng bào dân tộc Khmer có nhu cầu về đất ở và khoảng 7% có nhu cầu về đất sản xuất, thời gian tới tỉnh tiếp tục tranh thủ vận dụng quỹ đất, nguồn lực xã hội hóa để chung tay giúp đỡ đồng bào dân tộc Khmer sớm ổn định cuộc sống.

Về phát triển về giáo dục, đào tạo: Cấp ủy, chính quyền quan tâm triển khai đầy đủ các chính sách về giáo dục - đào tạo, nhằm nâng cao toàn diện trình độ dân trí cho đồng bào dân tộc Khmer. Toàn tỉnh hiện có 02 trường phổ thông dân tộc nội trú, giáo dục và đào tạo cho con em đồng bào DTTS, trong đó có con em đồng bào dân tộc Khmer, chất lượng giáo dục các trường phổ thông dân tộc nội trú có chuyển biến tích cực, từng bước nâng cao dân trí. Tỷ lệ học sinh Khmer học mẫu giáo đạt trên 95%, học tiểu học trên 90%, học trung học cơ sở trên 94%, học trung học phổ thông trên 93%. Đồng bào dân tộc Khmer đọc thông, viết thạo tiếng phổ thông đạt trên 95%. Bên cạnh đó, mỗi năm và dịp hè có khoảng trên 200 em học sinh là con em đồng bào dân tộc Khmer đến 15 điểm chùa Phật giáo Nam tông để học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình (mỗi điểm chùa trung bình từ 10 - 20 em).

Về phát triển văn hóa - thông tin: Các thiết chế văn hóa ở cơ sở được cấp ủy, chính quyền quan tâm đầu tư, gắn với xây dựng các xã nông thôn mới, phường đô thị văn minh. Có 100% đồng bào dân tộc Khmer được xem truyền hình và nghe đài phát thanh. Có 98% ấp trong vùng đồng bào Khmer có nhà sinh hoạt cộng đồng, 50% ấp có đội văn hóa, văn nghệ, câu lạc bộ truyền thống hoạt động thường xuyên, khá chất lượng. Hàng năm, có 100% khu dân cư trong vùng đồng bào dân tộc Khmer đăng ký đạt tiêu chuẩn Khu dân cư văn hóa, có từ 95% số hộ gia đình đăng ký đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa. Bên cạnh đó, Đài Phát thanh và Truyền hình Hậu Giang, Báo Hậu Giang quan tâm truyền tải phóng sự, viết tin, bài, hình ảnh về đời sống, sinh hoạt, sự kiện liên quan đến đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh; nêu gương người tốt, việc tốt trong đồng bào dân tộc Khmer và phê bình việc xấu. Bản tin bằng tiếng Khmer thực hiện đều đặn định kỳ hàng tuần, mỗi chuyên mục thời sự khoảng 15 phút với những tin quan trọng liên quan đến đời sống hàng ngày của đồng bào dân tộc Khmer. Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer, duy trì, phát triển các lễ hội văn hóa truyền thống.

Về phát triển về y tế: Đầu tư nâng cao chất lượng các cơ sở y tế, trạm y tế xã và đội ngũ bác sĩ, y sĩ, y tá người dân tộc Khmer. 100% trạm y tế trong vùng đồng bào dân tộc Khmer được xây dựng kiên cố; gần 90% phụ nữ đồng bào dân tộc Khmer có thai được khám thai định kỳ, sinh con ở cơ sở y tế và có sự trợ giúp của cán bộ y tế. Công tác phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm được triển khai đầy đủ ở vùng đồng bào dân tộc Khmer sinh sống. 100% đồng bào Khmer đã được tiêm chủng đủ 2 mũi vắc-xin phòng COVID-19. Việc thực hiện chính sách bảo hiểm y tế, các chương trình y tế quốc gia ở vùng đồng bào dân tộc Khmer được triển khai thực hiện đầy đủ; 90% đồng bào dân tộc Khmer tham gia Bảo hiểm y tế và 100% đồng bào dân tộc Khmer thuộc diện được cấp phát thẻ bảo hiểm y tế được cấp phát theo quy định.

Về tín ngưỡng tôn giáo: Công tác bảo vệ di sản văn hóa chùa chiền, xây nhà văn hóa, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ sửa chữa, trùng tu chùa chiền được tỉnh quan tâm tạo, điều kiện. Tỉnh đã hỗ trợ sửa chữa, nâng cấp một số chùa Phật giáo Nam tông Khmer có công với cách mạng khi bị hư hỏng, xuống cấp nặng; 15/15 chùa đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với tổng diện tích 170.083,75 ha. Nhờ sự quan tâm của tỉnh, các chùa đã nhập 16 Bộ Tam Tạng kinh để phục vụ nhu cầu tu học của sư sãi, nhằm nghiên cứu triết lý Phật giáo và hoằng dương chánh pháp; mở các lớp sơ cấp Pali đào tạo chư tăng trẻ.

Các ngành chức năng đã quan tâm hướng dẫn, hỗ trợ Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh tổ chức thành công Đại hội đại biểu Hội đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Hậu Giang lần thứ III, nhiệm kỳ 2022 - 2027. Người có uy tín được rà soát, xây dựng hàng năm theo Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg ngày 06/3/2018 của Thủ tướng Chính phủ. Năm 2023 có 61/71 người có uy tín là đồng bào thuộc dân tộc Khmer. Đến nay có gần 300 lượt đồng bào dân tộc Khmer là người có uy tín được hưởng các chính sách như cấp báo miễn phí (Báo Dân tộc và Phát triển, Báo Hậu Giang), thăm hỏi khi ốm đau, tặng quà nhân dịp lễ, tết trên địa bàn tỉnh.  Tại Hội nghị biểu dương, tôn vinh điển hình tiên tiến, phát huy vai trò của người có uy tín trong vùng đồng bào DTTS giai đoạn 2020 - 2022 trên địa bàn tỉnh Hậu Giang, có 12 cá nhân được tặng giấy khen. Vai trò của người có uy tín được phát huy trong việc tham gia cùng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trên địa bàn với việc thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở trong vùng đồng bào dân tộc Khmer.

Về xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc Khmer: bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ người dân tộc Khmer trong hệ thống chính trị từ cấp cơ sở đến cấp tỉnh. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong vùng đồng bào dân tộc Khmer được cấp ủy, chính quyền quan tâm, đảm bảo cơ bản tỷ lệ cán bộ dân tộc Khmer theo Quyết định số 402/QĐ-TTg, ngày 14/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ; tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Đề án của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về “Nâng cao chất lượng, năng lực đội ngũ cán bộ trẻ, nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số nhiệm kỳ 2020 - 2025” để tạo nguồn cán bộ đối với đồng bào dân tộc Khmer. Bên cạnh đó, bộ máy thực hiện công tác quản lý Nhà nước về dân tộc từng bước được kiện toàn.

Về bảo đảm an ninh chính trị, an ninh trật tự, an toàn xã hội: Cấp ủy, chính quyền các cấp tạo điều kiện để đồng bào dân tộc Khmer được giao lưu hợp tác, cùng phát triển giữa đồng bào các dân tộc trong tỉnh, ngoài tỉnh và nhân dân các nước bạn trên tinh thần hòa bình, hữu nghị. Đến nay, lực lượng an ninh xây dựng 183 người có uy tín trong đồng bào DTTS (trong đó có đồng bào dân tộc Khmer) để thực hiện nhiệm vụ giữ gìn, bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh; đã tranh thủ, tiếp xúc trên 1.000 lượt người có uy tín trong đồng bào dân tộc Khmer để tuyên truyền, vận động tham gia giữ gìn an ninh trật tự tại địa phương; không mắc phải tệ nạn xã hội, nâng cao cảnh giác trước các âm mưu phá hoại, thủ đoạn lôi kéo, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch. Theo dõi, nắm sát tình hình thân nhân, kiều bào, sư sãi tu học nước ngoài về lưu trú tại địa phương. Do làm tốt công tác dân vận, hòa giải ở cơ sở nên tình hình an ninh chính trị ở vùng đồng bào dân tộc Khmer ổn định, an ninh trật tự được giữ vững, không xảy ra tranh chấp, khiếu kiện phức tạp, kéo dài của đồng bào dân tộc Khmer.

Qua 05 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 19-CT/TW, công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tình hình mới trên địa bàn tỉnh Hậu Giang được cấp ủy, chính quyền các cấp tăng cường quan tâm về nhiều lĩnh vực; các chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội phục vụ cho nhân dân trong vùng đồng bào dân tộc Khmer được cấp ủy, chính quyền triển khai đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào phát triển kinh tế, từ đó đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào ngày càng được nâng lên; các hoạt động văn hóa, lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo được giữ gìn và phát huy; các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan dần được xóa bỏ; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trong vùng đồng bào dân tộc Khmer được giữ vững và ổn định.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số khó khăn, hạn chế như: một số cấp ủy, chính quyền chưa thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác đối với đồng bào dân tộc Khmer, hoặc có kiểm tra, giám sát nhưng hiệu quả chưa cao; Công tác bố trí cán bộ là đồng bào dân tộc Khmer, phát triển đảng viên, đoàn viên, hội viên trong đồng bào dân tộc Khmer và phát huy vai trò người có uy tín trong đồng bào dân tộc Khmer chưa được quan tâm đúng mức; Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội chưa nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của đồng bào dân tộc Khmer, các kiến nghị, đề xuất chậm được giải quyết; công tác tổ chức giám sát, phản biện xã hội trong vùng đồng bào dân tộc Khmer còn ít; Công tác phối hợp giữa các ngành trong thực hiện công tác dân tộc chưa chặt chẽ. Cán bộ phụ trách công tác dân tộc ở cơ sở gặp rất nhiều khó khăn, áp lực công việc cao, nhiều văn bản yêu cầu báo cáo trong thời gian rất gấp, nhiều số liệu cần phải điều tra, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp trong khi chưa có kinh phí bồi dưỡng, chưa có chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp để khuyến khích, tạo động lực yên tâm công tác; Sự phối hợp giữa các ngành trong thực hiện công tác đối với đồng bào dân tộc Khmer chưa chặt chẽ; Một bộ phận đồng bào Khmer do trình độ nhận thức chưa cao, dẫn đến sử dụng nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước không hiệu quả, nguy cơ tái nghèo còn cao; Việc ban hành các văn bản quản lý, tổ chức thực hiện các Chương trình MTQG theo thẩm quyền của các Bộ, ngành Trung ương còn chậm và chưa đồng bộ, ảnh hưởng đến công tác triển khai, tổ chức thực hiện các Chương trình…

Để phát huy những thành tích đạt được, khắc phục tồn tại, hạn chế, vượt qua khó khăn, thách thức và để công tác trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ngày càng đi vào thực chất, các ngành, các cấp trên địa bàn tỉnh cần thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp sau:

Một là, tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 19-CT/TW, Công văn số 613-CV/TU ngày 27/02/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện Chỉ thị số-19-CT/TW và những văn bản liên quan. Định kỳ tổ chức kiểm tra, giám sát, sơ, tổng kết, báo cáo theo quy định. Trong xây dựng văn bản cụ thể hóa cần gắn với thực tiễn, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ làm, hướng đến hiệu quả thực chất; việc làm, hoạt động nổi bật liên quan ngành, lĩnh vực, địa phương mình phụ trách.

Hai là, chủ động triển khai thực hiện chương trình, dự án, tranh thủ mọi nguồn lực, vận động xã hội hóa để đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào dân tộc Khmer, phát triển mô hình kinh tế tập thể để tận dụng đất sản xuất, bám theo Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị (khóa XIII) “Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS giai đoạn I: 2021 - 2025.

Ba là, nghiên cứu phát triển du lịch tâm linh gắn với các điểm chùa Phật giáo Nam tông Khmer, góp phần giữ gìn bản sắc tín ngưỡng truyền thống, nâng cao thu nhập cho đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn, có kinh phí để tu sửa, nâng cấp chùa khang trang. Giữ gìn, phát huy tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer. Tạo mối quan hệ gần gũi, gắn bó với Hội đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh.

Bốn là, đổi mới nội dung, phương thức vận động, tập hợp nhân dân trong vùng đồng bào dân tộc Khmer, gắn với việc chuyển đổi số và xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền thân thiện. Học tập và vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với đồng bào DTTS để áp dụng vào đồng bào dân tộc Khmer.

Năm là, định kỳ biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích trong thực hiện công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer. Chú trọng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở vùng đồng bào dân tộc Khmer. Phân công, bố trí cán bộ phụ trách công tác dân tộc có tâm huyết, trách nhiệm, năng lực, trình độ. Giao trách nhiệm cho người đứng đứng đầu cấp ủy, chính quyền các địa phương về tình trạng an ninh chính trị trong vùng đồng bào dân tộc Khmer.

Lan Anh

 

 

 

 

Gửi cho bạn bè

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác