Đảng ta luôn xác định: Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Trước tình hình thế giới và trong nước có nhiều thay đổi, nhất là quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, đang có nhiều vấn đề mới nảy sinh như: Vấn đề phân hóa giàu nghèo với công bằng xã hội và thực hiện mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; vấn đề nông dân mất đất sản xuất; sự dịch chuyển lao động, dân số từ nông thôn ra thành thị làm việc ở các khu công nghiệp, đô thị, quan hệ chủ thợ… Những vấn đề nêu trên đều liên quan đến tâm tư, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của Nhân dân. Nhân dân có nhiều quan tâm, còn nhiều bức xúc và khiếu tố gay gắt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước mà chưa được giải quyết. Ngày 03/6/2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết 25-NQ/TW về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”, xác định rõ mục tiêu của công tác dân vận là: Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới nhằm củng cố vững chắc lòng tin của Nhân dân đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân; tập hợp, vận động Nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của Nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu công tác dân vận, đòi hỏi các tổ chức trong hệ thống chính trị phải không ngừng tăng cường, đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của Đảng.
Công tác dân vận có nội dung rộng lớn, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của nhiệm vụ cách mạng do Đảng lãnh đạo và các lĩnh vực của đời sống xã hội, có liên quan tới tất cả mọi người dân. Song chính vì nội dung rộng lớn ấy cũng thường làm cho công tác dân vận trở nên chung chung, khó xác định, đánh giá về hiệu quả. Do vậy, việc xây dựng các tiêu chí để phấn đấu nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận trong tình hình mới là rất quan trọng và cần thiết; đó cũng chính là một nội dung để đổi mới công tác dân vận, đáp ứng yêu cầu hiện nay. Theo đó, cần đi sâu nghiên cứu một số nội dung sau:
Trước hết, phải thấy rằng, chất lượng, hiệu quả công tác dân vận chính là mức độ phát triển, hoàn thiện của công tác dân vận thuộc trách nhiệm của hệ thống chính trị và mặt khác là mức độ hài lòng của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp.
Chất lượng, hiệu quả của công tác dân vận do Đảng lãnh đạo thực chất cũng là một loại dịch vụ công từ đội ngũ “công bộc, đầy tớ của dân” cung cấp và được đánh giá bằng mức độ cao hay thấp, có thể so sánh giữa các tổ chức có cùng chức năng ở trong và ngoài nước. Mặt khác, nó phản ánh mối quan hệ giữa các giải pháp, công sức bỏ ra với kết quả thu được từ hoạt động của các tổ chức, cá nhân; cũng có thể lượng hóa, đánh giá được, xác định qua một số tiêu chí:
Thứ nhất, mức độ hiểu biết của Nhân dân và lòng tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thuận với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước; Nhân dân hăng hái, phấn khởi, tự giác thực hiện nhiệm vụ và nghĩa vụ của mình trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các nhiệm vụ của địa phương, đơn vị.
Đây là chất lượng, hiệu quả giáo dục, tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong các tầng lớp Nhân dân. Nó thống nhất giữa hiểu biết với niềm tin và hành động của người dân. Để tạo ra điều đó ở phía người dân thì những quyết sách của Đảng và Nhà nước, của địa phương phải thuận với lòng dân, luôn đứng về phía người dân; mọi việc lớn, nhỏ, trước mắt cũng như lâu dài mà Đảng và Nhà nước, cấp ủy, chính quyền địa phương, cán bộ, đảng viên, công chức làm việc đều phải vì dân và dân cảm nhận, thụ hưởng trực tiếp lợi ích; thấy rõ Đảng và Nhà nước, cấp ủy, chính quyền thực sự là của mình, vì mình… Như thế, người dân sẽ bảo vệ Đảng và Nhà nước, bảo vệ chế độ, hăng hái thực hiện mọi cuộc vận động, mọi phong trào thi đua yêu nước vừa vì sự nghiệp chung, vừa đem lại lợi ích thiết thân cho mình.
Muốn vậy, dân vận và công tác dân vận phải toàn diện cả xây dựng Đảng, Nhà nước vững mạnh. Có đường lối, cơ chế chính sách thực sự vì dân, do dân, khắc phục triệt để tính hình thức, lãng phí, tính hành chính quan liêu, xa dân. Muốn vì dân thì phải hiểu dân, tin dân, tinh thần đoàn kết, kiên trì thuyết phục và nhất là nêu cao đức hy sinh, tính tiền phong, sự gương mẫu của người lãnh đạo, của cán bộ, đảng viên để Nhân dân noi theo.
Thứ hai, đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo; xây dựng cơ chế, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, thuận lợi cho Nhân dân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, công ăn việc làm, nâng cao đời sống mọi mặt, sự hài lòng của Nhân dân.
Cơ chế kinh tế thị trường một mặt tạo ra động lực thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế - xã hội phát triển, song mặt trái của nó cũng thúc đẩy tạo ra sự phân hóa giàu nghèo và tiêu cực xã hội phát triển. Đảng ta đã xác định mục tiêu phát triển xã hội XHCN ở nước ta là: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vì vậy, bên cạnh việc tập trung tháo gỡ về cơ chế, chính sách, từng bước hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo ra môi trường thông thoáng cho sản xuất, kinh doanh và động lực cho phát triển thì cũng phải hết sức chú ý tới các chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ giảm nghèo và những người gặp hoàn cảnh khó khăn.
Thứ ba, phải phát huy được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc và tăng cường sự đoàn kết, nhất trí trong các cộng đồng dân cư ở cơ sở.
Nước ta là một nước đa dân tộc, đa tôn giáo. Mặt trận Tổ quốc là liên minh chính trị xã hội rộng lớn nhất, đóng vai trò nòng cốt, tập hợp và phát huy sức mạnh đại đoàn kết. Sự phối hợp thường xuyên và có hiệu quả các tổ chức trong hệ thống chính trị giữa hệ thống tổ chức Mặt trận từ Trung ương tới cơ sở, cùng sự hợp tác, phối hợp với các tổ chức công quyền (Nhà nước), với các tổ chức chính trị - xã hội... để cùng vận động, tuyên truyền, giúp đỡ Nhân dân, nhất là dân cư ở những vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số ở miền núi… sẽ góp phần thúc đẩy chất lượng, hiệu quả dân vận và công tác dân vận.
Phát huy được sức mạnh đoàn kết là phát huy được một trong những truyền thống quý báu của dân tộc, gắn liền với truyền thống yêu nước, thương người, gắn bó cố kết cộng đồng, tương thân tương ái, đạo lý và tình nghĩa của Nhân dân ta. Đây là những giá trị tinh thần thuộc về bản sắc văn hóa Việt Nam. Chất lượng, hiệu quả công tác dân vận phải góp phần chủ động và tích cực nhất trong việc xây dựng và phát huy giá trị cộng đồng dân tộc Việt Nam, tạo ra chuyển biến tích cực về xây dựng con người Việt Nam, những thế hệ người Việt Nam biết đoàn kết, biết yêu nước, tự hào dân tộc; vun trồng đạo đức lành mạnh, chống cái ác, cái xấu, thái độ vô cảm, lẩn tránh trách nhiệm, lối sống vụ lợi, vị kỷ chạy theo đồng tiền trong nền kinh tế thị trường làm tổn thương đến giá trị con người và xã hội.
|
Hội thi "Dân vận khéo" Công an tỉnh Lào Cai năm 2014 |
Phải chú trọng phát huy, nhân rộng, cổ vũ các điển hình cá nhân và tập thể trong cộng đồng, hướng dẫn dư luận xã hội lành mạnh, dùng sức mạnh của dư luận xã hội hỗ trợ cho các biện pháp quản lý của Nhà nước và các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động của Mặt trận và các đoàn thể để chống lại có hiệu quả sự suy đồi đạo đức, sự gia tăng tệ nạn, tội phạm, sự rối loạn kỷ cương trật tự, sự coi thường luật pháp. Có như vậy mới làm cho xã hội lành mạnh, cuộc sống của người dân được yên ổn. Dân vận lúc này phải hướng vào yên dân, an dân, chăm lo dân sinh, thực hiện an sinh xã hội, nhất là với bộ phận không nhỏ dân cư còn đang nghèo đói, thiệt thòi, dễ bị tổn thương. Chất lượng, hiệu quả công tác dân vận phải thể hiện bằng việc làm và hành động thực tế để bảo vệ dân, chăm lo cải thiện đời sống, nâng cao mức sống của dân và có cơ chế, chính sách hợp lý để phát triển, phát huy được sức dân trong một môi trường kinh tế - xã hội công bằng, dân chủ, minh bạch.
Thứ tư, công tác dân vận phải tập hợp, phát huy sức mạnh, tiềm năng trí tuệ, sáng tạo của Nhân dân thành phong trào cách mạng, phong trào thi đua yêu nước rộng lớn trong Nhân dân, thực hiện thắng lợi các mục tiêu của nhiệm vụ cách mạng và nhiệm vụ chính trị trọng tâm của địa phương, đơn vị.
Theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ hơn 60 năm về trước, thi đua là yêu nước, yêu nước phải thi đua, toàn dân, toàn quốc cũng như toàn Đảng, toàn dân kết thành một khối vững chắc, làm nên sức sống và ý nghĩa của các phong trào thi đua yêu nước. Phong trào ấy tạo ra khí thế và sức mạnh tổng hợp, đã từng làm nên thành công của sự nghiệp vừa kháng chiến, vừa kiến quốc thời kỳ chống thực dân Pháp, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đánh thắng hai đế quốc to, vì độc lập - tự do của Tổ quốc. Phong trào thi đua yêu nước lúc này phải huy động sức mạnh toàn dân, toàn quân, toàn Đảng, ra sức đẩy mạnh đổi mới, chủ động hội nhập thực hiện thắng lợi mục tiêu CNH, HĐH đất nước; đánh bại mọi âm mưu và thế lực xâm lược nước ta, giữ vững độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Phong trào rộng lớn của Nhân dân phải nhằm vào việc hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của các địa phương, đơn vị. Các tổ chức trong hệ thống chính trị phải thực sự đổi mới về phương pháp vận động Nhân dân sao cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp Nhân dân để vừa tập hợp, vừa động viên, phát huy được sức mạnh của Nhân dân, tổ chức được các phong trào Nhân dân rộng lớn, thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Thứ năm, công tác dân vận phải đảm bảo thực hành dân chủ rộng rãi nhất trong hoạt động của Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp, thực hành dân chủ XHCN, thực hành dân chủ trong xã hội.
Trong điều kiện thông tin bùng nổ như hiện nay, xu hướng công khai, minh bạch hóa những hoạt động của Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp là một xu thế phát triển xã hội và tạo điều kiện để Nhân dân giám sát hoạt động của Đảng, Nhà nước, tham gia ý kiến xây dựng Đảng, Nhà nước, tham gia giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng chủ trương, cơ chế chính sách sao cho thực sự vì dân, do dân.
Có dân chủ mới phát huy được lòng hăng hái, mới nảy nở nhiều sáng kiến, mới thúc đẩy sự sáng tạo vượt khó. Có dân tin tưởng, dân giúp đỡ, dân ủng hộ, dân bảo vệ, lại được dân yêu mến thì mọi khó khăn đều vượt qua được. Thực hành dân chủ thiết thực nhất vào lúc này là chống quan liêu, tham nhũng thành công, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, để lo cho dân những nhu cầu bức xúc: có ăn, có mặc, được học hành, được chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe, có nhà ở, được tự do đi lại, được hưởng quyền tự do làm chủ mà họ xứng đáng được hưởng. Có trách nhiệm cao nhất đối với dân, có niềm tin vào dân, có hành động thực sự vì dân, nói ít làm nhiều, chủ yếu là hành động, nhất quán giữa nói và làm, thực sự đổi mới phương pháp, quy trình soạn thảo đề ra chủ trương, cơ chế, chính sách sao cho thực sự vì dân, do dân. Lắng nghe và tạo điều kiện cho Nhân dân tham gia thực sự vào quá trình đó.
Thứ sáu, chất lượng hiệu quả công tác dân vận còn phải được đánh giá bởi chất lượng, hiệu quả của lãnh đạo, quản lý và đổi mới nội dung phương thức vận động Nhân dân của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể các cấp.
Đây cũng là một nhân tố không thể thiếu. Nó liên quan trực tiếp và trước hết tới đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, người đứng đầu các cấp ủy đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể. Nó phải biểu hiện ở sự quan tâm, ở trình độ nhận thức dẫn tới tầm nhìn và hành động, ở chế độ trách nhiệm, phải làm dân vận thực sự chứ không chiếu lệ hình thức, không hời hợt, qua loa đại khái. Phải xem xét lại các quyết sách đã có, các chính sách hiện hành, các giải pháp đang thực hiện, nhanh chóng phát hiện ra những bất cập, yếu kém, lạc hậu để sửa chữa, điều chỉnh kịp thời. Mức độ được lòng dân hay mất lòng dân, dân đồng tình hay phản đối, dân hăng hái tham gia hay tham gia chiếu lệ, dân gắn bó hay thờ ơ với các tổ chức đoàn thể mà họ là đoàn viên, hội viên… sẽ cho thấy chất lượng, hiệu quả công tác dân vận là cao hay thấp, tốt hay chưa tốt, thực sự vì dân trên thực tế hay chỉ vì dân trên lời nói, danh nghĩa.
Những nội dung nêu trên để tham khảo, nghiên cứu, cụ thể hóa phù hợp nhiệm vụ chính trị và điều kiện hoàn cảnh cụ thể, chức năng nhiệm vụ của các tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị và cấp ủy, chính quyền, lực lượng vũ trang, Mặt trận, đoàn thể ở các cấp./.
Nguyễn Duy Việt, Nguyên Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương/Tạp chí Dân vận số 1+2/2015