Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức, về chữ Liêm trong đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh nổi bật tư tưởng về đạo đức và thực hành đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng và Đảng cách mạng không chỉ giác ngộ chủ nghĩa, có lý luận tiên phong để làm tròn sứ mệnh của Đảng tiên phong lãnh đạo mà còn phải có đạo đức trong sáng, tận tụy hy sinh, hết lòng vì Dân, vì Nước. Đó là thước đo về lòng trung thành đối với lý tưởng cộng sản, với Tổ quốc và nhân dân của Đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền.
Giác ngộ chủ nghĩa, học thuyết để có niềm tin khoa học, thúc đẩy hành động tự giác và sáng tạo. Đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, nhất quán giữa nói và làm là sức mạnh để đánh bại chủ nghĩa cá nhân, “giặc nội xâm ẩn nấp ở trong lòng”, “kẻ thù nguy hiểm nhất”, nếu không đánh bại nó thì cơ đồ, sự nghiệp sẽ đổ vỡ.
Bản lĩnh chính trị để vượt qua mọi thử thách đòi hỏi không chỉ lý trí sáng suốt nhờ giác ngộ lý tưởng, có niềm tin khoa học và trải nghiệm thực tiễn tranh đấu mà còn phải có tình cảm cách mạng trong sáng, có đạo đức gương mẫu, có đủ cả bốn đức: Cần kiệm liêm chính, toàn tâm, toàn ý vì sự nghiệp, đặt lợi ích của Tổ quốc, Dân tộc và nhân dân lên trên hết, trước hết, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân khi cần thiết.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh, có đủ cả 4 đức: cần kiệm liêm chính mới là người hoàn toàn. Thiếu một đức thì không thành người. Sống ở đời, thì “nhân vô thập toàn”, Ai cũng có cái hay và cái dở, cái tốt và cái xấu. Muốn trở nên hoàn toàn thì suốt đời phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, suốt đời phải tranh đấu, tự vượt lên chính mình, suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân - một thứ giặc ở trong lòng.
Người hình dung, cuộc chiến đấu với chính mình để từ bỏ tính tham, lòng tham và những gì bất minh, bất chính trong con người mình là cuộc chiến đấu có không ít sự đau đớn ở trong lòng.
Người còn nói rõ, có cần, có kiệm mới có liêm. Có liêm mới có chính. Từng người đã vậy, cả Dân tộc cũng vậy. Xét về mặt chính trị và chính thể, đạo đức cần kiệm liêm chính của cán bộ và công chức trong bộ máy công quyền sẽ làm cho bộ máy trong sạch, không có tì vết quan liêu tham nhũng, không gây tổn hại tới lợi ích chung, không làm hoen ố thanh danh, uy tín của Đảng và chế độ, không làm suy giảm, thậm chí đánh mất lòng tin của nhân dân. Xét về mặt con người và nhân cách “làm người”, “ở đời”, đạo đức cần kiệm liêm chính là biểu hiện và chứng thực quan trọng nhất của sự lương thiện, sự tử tế. Nhờ thế mà những người có chức có quyền, do chính nhân dân ủy quyền mà có mới gần dân, trọng dân, mới có thể “thân dân” và “chính tâm”, tự mình bảo vệ phẩm giá, danh dự của mình và của Đoàn thể, vượt qua những suy thoái và tha hóa. Một Dân tộc có đủ cả cần kiệm liêm chính thì sẽ giầu có về vật chất và văn minh về tinh thần.
Hồ Chí Minh cũng từng đưa ra lời cảnh báo từ rất sớm, một dân tộc, một Đảng và mỗi con người đã từng là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn nhưng không phải mãi mãi được như vậy, nếu ngày nay lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Người tự mình suốt đời thực hành đạo đức cách mạng để nêu gương cho mọi người noi theo, làm theo với bốn đức tính quý báu đã nêu trên.
Cả đời không màng danh lợi, suốt đời ở ngoài vòng danh lợi - đó là tấm gương sáng về đạo đức, đó còn là bản lĩnh chính trị, bản lĩnh văn hóa của Hồ Chí Minh, mãi mãi có giá trị và ý nghĩa cho mọi người, mọi thế hệ. Nghiên cứu tư tưởng và di sản Hồ Chí Minh, ta nhận ra những đặc điểm đặc sắc và cao quý của Người, từ đó càng cảm nhận thấm thía hơn công lao vĩ đại và những cống hiến, hy sinh vô giá của Người đối với dân tộc và nhân loại.
|
Đồng chí Bùi Thị Minh Hoài, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương;
đồng chí Nguyễn Đình Khang, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
chúc mừng các tập thể được tôn vinh tại chương trình "Vinh quang Việt Nam" năm 2022
|
Thứ nhất, lòng yêu nước thương dân của Người là vô hạn. Trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước, cứu dân, trải qua lao động, tranh đấu, vượt qua mọi thử thách, Người đã tìm thấy đường cách mạng, giác ngộ lý tưởng cộng sản, suốt đời theo đuổi và thực hiện lý tưởng cao quý đó với tinh thần cách mạng triệt để. Càng trung thành với lý tưởng, mục tiêu chủ nghĩa cộng sản bao nhiêu, Người càng tỏ rõ lòng yêu nước thương dân bấy nhiêu. Trong đường lối và phương pháp cách mạng đầy sáng tạo của Người, tinh thần dân tộc, quan điểm nhân dân càng sâu đậm bao nhiêu, Người càng thể hiện nổi bật và nhất quán bấy nhiêu bản chất, cốt cách của một người cộng sản kiên định và hiện đại, kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với quốc tế, chủ nghĩa yêu nước của dân tộc với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công nhân, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng Mác-xít sáng tạo, không giáo điều, không biệt phái, Người sớm hình thành tư tưởng cách mạng Đổi mới và Hội nhập để thực hành đến cùng triết lý Giải phóng và Phát triển, thực hiện khát vọng Độc lập - Tự do và Hạnh phúc của Tổ quốc - Dân tộc và Nhân dân. Là lãnh tụ của Đảng, của dân, Hồ Chí Minh thể hiện chân thực “hình ảnh của dân tộc”, là “tinh hoa, khí phách của dân tộc”(1). Thủ tướng Phạm Văn đồng dẫn lời bạn bè quốc tế: “Hồ Chí Minh yêu nước 100% và cộng sản cũng 100%”(2). Bởi thế, với Hồ Chí Minh, với Việt Nam, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là một chủ nghĩa xã hội khoa học, cách mạng và nhân văn, đậm bản sắc dân tộc, tính nhân dân, tinh thần thời đại, kế thừa truyền thống và tinh hoa nhân loại.
Thứ hai, là con người hành động, nhất quán với quan điểm thực tiễn, đổi mới và phát triển, Hồ Chí Minh chú trọng thực hành, thường xuyên giáo dục, rèn luyện cán bộ đảng viên trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, làm cho mỗi người ham chuộng các công tác thực tế, làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân, làm tất cả vì hạnh phúc của nhân dân. Thiên tài tư tưởng và tổ chức của Hồ Chí Minh là ở chỗ thức tỉnh tinh thần dân tộc, truyền cảm hứng yêu nước cho toàn dân, tổ chức dân thành lực lượng và phong trào do Đảng lãnh đạo để phát huy cao độ lòng yêu nước và trí sáng tạo vô tận của nhân dân, tạo nên sức mạnh vô địch của đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa sự nghiệp cách mạng tới thành công.
Thứ ba, Hồ Chí Minh là người có chủ kiến rõ ràng về khoa học cách mạng, gắn liền với đạo đức cách mạng. Thực hành lý luận đồng thời là thực hành đạo đức. Thắng lợi của sự nghiệp cách mạng phải được bảo đảm không chỉ với đường lối và phương hướng đúng mà còn với sức mạnh của đạo đức. Nhờ có đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư mà người cách mạng mới giữ trọn lòng trung thành, dũng cảm, hy sinh và dâng hiến đời mình cho sự nghiệp chung, mới có dũng khí “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Khi Đảng còn chưa ra đời, Nguyễn Ái Quốc đã viết trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, năm 1927, “phải giữ chủ nghĩa cho vững và ít lòng tham muốn về vật chất”(3). Đó là đòi hỏi tất yếu, cần thiết để làm cách mạng đến nơi, tức là triệt để, vì quyền sống, quyền làm chủ và hạnh phúc của nhân dân. Và 20 năm sau, khi cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân đã thắng lợi, Đảng đã cầm quyền, nhưng sóng gió, thử thách lại ập đến, trong buổi đầu “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, vào tháng 3/1947, Người đã viết “Đời sống mới” với bút danh Tân Sinh, vào tháng 10/1947, với bút danh X.Y.Z, Người viết “Sửa đổi lối làm việc”(4). Cả hai tác phẩm này, Người đều nhấn mạnh điều hệ trọng là đạo đức của người cách mạng, là thực hành đạo đức cần kiệm liêm chính trong mỗi người, mỗi tổ chức. Dường như, cứ mỗi bước ngoặt của cách mạng, Người lại đặc biệt quan tâm tới đạo đức, trước hết là đạo đức trong Đảng và trong các cơ quan Nhà nước, để chủ động phòng tránh sự hư hỏng, để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đủ sức đánh bại mọi kẻ thù bằng sức mạnh thật trong sạch, thật vững mạnh của đạo đức, của tinh thần cùng với đường lối, chính sách đúng, tổ chức mạnh, kỷ luật nghiêm, giữ vững quyết tâm, tín tâm, đồng tâm trong mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Cho đến cuối đời, Người vẫn quan tâm không mệt mỏi tới “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”(5). Di chúc để lại cho toàn dân, toàn Đảng, Người căn dặn, “trước hết nói về Đảng” và “đầu tiên là công việc với con người”. Phải hết lòng, hết sức chăm lo giữ gìn đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình, phải ra sức thực hành dân chủ rộng rãi và thực hành cần kiệm liêm chính để thật xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Cũng như từ “Nhân dân”, từ “Đoàn kết”, từ “Đạo đức” là những từ có tần số lớn nhất trong bảng từ vựng của Hồ Chí Minh. Rõ ràng nhà tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời là nhà đạo đức học thực hành Hồ Chí Minh.
Thực hành đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư là thực hành nổi bật, nhất quán trong cuộc đời hoạt động cách mạng hơn 6 thập kỷ của Người, cùng với: Thực hành lý luận, thực hành Dân chủ, thực hành Dân vận, thực hành Đoàn kết. Chỉ riêng mười năm cuối đời, Người đã có 700 lần đi về các địa phương và cơ sở, nhất là ở nông thôn, với nông dân. Những việc làm của Người thể hiện sâu sắc phong cách quần chúng và dân chủ, gần dân, thương dân và vì dân, tận tụy hy sinh và dâng hiến đời mình cho hạnh phúc của dân. Những lời nói chân thành và cảm động của Người được chứng thực hoàn toàn từ những việc làm giản dị mà cao quý của Người, được nhân dân cảm nhận tự đáy lòng.
Cảm ơn đồng bào chúc thọ Người, năm 1946, Người nói rõ, “Tôi xin hứa với đồng bào rằng, từ đây về sau cũng như từ đây về trước, tôi sẽ ra sức phấn đấu để giữ gìn quyền tự chủ của nước nhà, quyền tự do của dân tộc, quyền dân chủ của đồng bào”(6). Người đã từng nói, “một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”.
Ta còn nhớ vào tháng 10/1946, trên chiến hạm Đuy Mông - Đuyếcvin khi về nước sau chuyến đi đàm phán dài ngày ở Pháp, Người đã khảng khái trả lời nhà báo Hê Tơ Rích: “Hồ Chí Minh không bao giờ cúi đầu trước bạo lực vì Hồ Chí Minh là một phần không chia cắt khỏi dân tộc mình. Ông ta mong muốn những gì dân tộc ông mong muốn. Ông ta hành động điều mà cả dân tộc ông đang hành động”(7).
Cho nên, Hồ Chí Minh là người của đồng bào, đã thuộc về đồng bào, mãi mãi thuộc về đồng bào, dấn thân vì nước, hóa thân vào dân. Năm 1963, Quốc hội quyết định trao tặng Người huân chương Sao Vàng là tấm huân chương cao quý nhất của nước ta. Người xin Quốc hội hoãn lại, đợi miền Nam được giải phóng đã. Người khiêm tốn nói rằng, tự bản thân Người, Người thấy mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Miền Nam luôn ở trong trái tim Người. Năm 1967, Liên Xô quyết định trao tặng Người Huân chương Lênin. Người xin phép hoãn việc trao tặng đó. Người bày tỏ, đợi đến ngày cách mạng toàn thắng, Người sẽ đi thăm Liên Xô và các nước anh em để cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của Liên Xô và các nước anh em, bầu bạn quốc tế đã hết lòng hết sức ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta và thay mặt đồng bào chiến sĩ đón nhận tấm huân chương cao quý đó cho dân tộc Việt Nam chứ không phải riêng của Người. Cử chỉ ấy, khiêm tốn và cao thượng vĩ đại của Người làm xúc động muôn triệu người. Hai tháng trước khi mất, ngày 14/7/1969, Người còn tiếp và trả lời phỏng vấn của nhà báo Cuba, nữ đồng chí Mác Ta Rô Hát, về điều gì là thiêng liêng nhất trong cuộc đời của Người, Hồ Chí Minh đã nói “Tôi hiến đời tôi cho nhân dân tôi, mỗi người, mỗi gia đình có một nỗi khổ, nỗi đau riêng, gộp tất cả nỗi khổ đau đó lại của mỗi người, mỗi gia đình thành nỗi khổ đau của chính bản thân tôi... Ở miền Nam, tôi không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh mà là Bác Hồ”(8). Đó thực sự là kết tinh và tỏa sáng đạo đức Hồ Chí Minh, tiêu biểu cho đạo đức Việt Nam, tâm hồn và cốt cách của dân tộc Việt Nam.
Vậy Hồ Chí Minh đã nói với chúng ta những gì về đạo đức cần kiệm liêm chính, về trau dồi và thực hành liêm chính của mỗi chúng ta?
Người nói, “những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần kiệm liêm chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”(9). Khởi đầu của liêm là cần và kiệm. Cần cù, chăm chỉ, siêng năng trong làm việc, tự giác và tận tuỵ trong mỗi việc làm, đó là trách nhiệm với dân. Cần cù xa lạ và đối lập với lười biếng, cũng như vậy, tiết kiệm đối lập với lãng phí xa hoa, cần cù phải đi liền với sáng tạo để làm việc có hiệu quả cao. Tiết kiệm là tiêu dùng hợp lý, là lối sống văn minh, là đạo đức của những người được coi là đầy tớ, công bộc của dân chứ tiết kiệm không phải là keo kiệt bủn xỉn. Vì thương dân mà phải tiết kiệm. Mỗi đồng tiền, bát gạo mà chúng ta chi dùng hằng ngày đều từ mồ hôi, nước mắt của dân làm ra. Lãng phí là không thương dân và quan liêu, tham nhũng là có tội với dân, với nước. Lười biếng và lãng phí dẫn tới quan liêu, tham nhũng. Bởi thế cần kiệm là cơ sở của đức liêm khiết.
Người nhấn mạnh, “phải nhớ rằng, dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta. Lười biếng tức là lừa gạt dân”(10). Đó cũng là kẻ bất liêm.
Hồ Chí Minh cảnh báo nguy cơ rơi vào bất liêm mà ai cũng phải tự mình đề phòng, vượt qua. Những người trong các công sở, từ làng cho đến chính phủ ở Trung ương, đều dễ tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của chính phủ, hoặc khoét đục nhân dân. Đến khi lộ ra, bị phạt, thì mất hết cả danh giá, mà của phi nghĩa đó cũng không được hưởng. Vì vậy, những người trong các công sở phải lấy chữ liêm làm đầu”(11). Giải thích cặn kẻ chữ liêm, Người nêu lên các yêu cầu: không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá(12).
Người xác định, cán bộ đảng viên, nhất là thanh niên phải xây dựng lối sống chân chính, lựa chọn giá trị sống cho đúng. “Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”(13).
Chữ liêm không chỉ thể hiện trong “cần kiệm liêm chính” mà còn trong “nhân - trí - dũng - liêm - trung”, phải trung với Nước, trung với Đảng, hiếu với Dân. Đủ thấy đức liêm cần thiết và quan trọng như thế nào trong đạo làm người. Cách đây hơn 7 thập kỷ, vào tháng 6/1949, Hồ Chí Minh lấy bút danh Lê Quyết Thắng đã viết tác phẩm “Cần kiệm liêm chính” để phân tích sâu sắc và hệ thống về chữ liêm và đức liêm chính, liêm trung của cán bộ đảng viên. Đáng lưu ý là ở chỗ, ai cũng cần rèn luyện để có được liêm và ai cũng đứng trước nguy cơ rơi vào bất liêm, thành kẻ bất liêm, không chỉ cán bộ mà cả người dân nếu không chịu khó tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, không tự đấu tranh với chính mình.
Người đã có những lời căn dặn thấm thía:
- Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là BẤT LIÊM(14).
- Dìm người giỏi để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm)(15).
- Gặp việc phải mà sợ khó nhọc, nguy hiểm, không dám làm, là tham vật uý lạo. Gặp giặc mà rút ra, không dám đánh là tham sinh uý tử. Đều là trái với chữ LIÊM. Do BẤT LIÊM mà đi đến tội ác trộm cắp. Công khai hay bí mật, trực tiếp hay gián tiếp, bất liêm tức là trộm cắp(16).
Dẫn lời của các bậc thánh hiền từ đời xưa, Người viết: “Cụ Khổng Tử nói: “Người mà không liêm không bằng súc vật”(17). Cụ Mạnh Tử nói: “Ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy”(18). Sau khi đã làm rõ nghĩa liêm và bất liêm, Hồ Chí Minh đề ra giải pháp rất thiết thực cho việc thực hành chữ liêm và chống mọi hành vi bất liêm. “Cần có tuyên truyền và kiểm soát, giáo dục và pháp luật, từ trên xuống, từ dưới lên”. Người đặc biệt nhấn mạnh, “trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước để làm kiểu mẫu cho dân”(19).
Người còn nói đến trách nhiệm, nghĩa vụ của người dân. Trong một nước dân chủ, dân đã có quyền làm chủ thì cũng phải tự giác thực hiện nghĩa vụ của người chủ. Nghĩa vụ ấy là sống sao cho ngay thẳng, lương thiện, có đạo đức, tuân thủ luật pháp. Nếu người cán bộ cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút hoặc trộm của công làm của tư là bất liêm thì dân cũng phải tự mình phòng tránh để không rơi vào những việc làm, những hành vi bất liêm. Ví dụ: người buôn bán, mua 1 bán 10, hoặc mua gian bán lận, chợ đen chợ đỏ, tích trữ đầu cơ. Người có tiền cho vay cắt cổ, bóp hầu bóp họng đồng bào. Người cày ruộng không ra công đào mương, mà lấy cắp nước ruộng của láng giềng. Người làm nghề (bất cứ nghề gì) nhân lúc khó khăn mà bắt chẹt đồng bào. Người cờ bạc, chỉ mong xoay của người khác làm của mình. Đều là tham lam, đều là BẤT LIÊM(20). Vai trò của dân rất to lớn vì bao nhiêu lợi quyền đều là của dân. Dân không chỉ giữ liêm cho mình mà “dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ liêm”(21).
Người thẳng thắn chỉ rõ, “Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “quan dù không liêm, cũng phải hóa ra LIÊM”(22).
Người không chỉ chú trọng giáo dục đạo đức mà còn phải áp dụng luật pháp, xử lý nghiêm khắc theo luật pháp những kẻ bất liêm “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”(23).
Người chỉ dẫn, mỗi người phải nhận rằng, tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nước, với dân(24). Đó là sự thức tỉnh lương tâm và danh dự trong mỗi con người để rèn luyện thành người liêm chính.
“Cán bộ thi đua thực hành liêm khiết thì sẽ gây nên tính liêm khiết trong dân”(25). Đây là một ý tưởng cực kỳ sâu sắc của Hồ Chí Minh. Người đã nhấn mạnh một nội dung đạo đức trong thi đua ái quốc, qua đó ta thấy rõ vai trò của đạo đức trong chính trị và trong kinh tế. Ngày nay, Đảng ta nhấn mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, nhất thiết phải chú trọng giáo dục và thực hành đạo đức, đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, đồng thời tăng cường kiểm soát quyền lực bằng cách phát huy vai trò, sức mạnh của dân.
Công tác dân vận phát huy vai trò của Dân trong kiểm soát quyền lực, giúp cán bộ thực hiện chữ Liêm
Tháng 10/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo nổi tiếng “Dân vận” với bút danh X.Y.Z. Hơn 3/4 thế kỷ đã qua, kể từ khi tác phẩm ra đời, “Dân vận” vẫn còn nguyên tính thời sự, vẫn mới mẻ và hiện đại, vẫn luôn nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa và tầm quan trọng sống còn của công tác vận động quần chúng mà chúng ta thường gọi tắt là Dân vận.
Nếu “dân phải giúp cho cán bộ thực hiện chữ liêm” như Người đã viết trong tác phẩm “Cần kiệm liêm chính” thì “Dân vận” là phương pháp và phong cách tác động tới quần chúng đông đảo nhằm phát huy vai trò, khả năng và sáng kiến của dân trong kiểm soát quyền lực, để dân giúp cán bộ thực hành chữ liêm.
Dân vận vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật giác ngộ và thúc đẩy quần chúng làm cách mạng, chủ động tham gia các hoạt động chính trị - xã hội, từ xây dựng Đảng, chính quyền và đoàn thể đến giám sát các hoạt động và hành vi của cán bộ, nói như ngôn ngữ hiện nay là tham gia kiểm soát quyền lực, để quyền lực mà nhân dân trao cho, ủy thác cho không bị tha hóa, trực tiếp phục vụ dân chứ không bị biến dạng, làm tổn hại tới lợi ích và quyền lực của dân.
Mọi sự tha hóa trong tổ chức, bộ máy và con người đều bắt đầu từ sự tha hóa về đạo đức, do tính tham, lòng tham không được chế ngự, do thói bất minh, bất chính có gốc rễ, căn nguyên từ chủ nghĩa cá nhân mà cán bộ không có đủ dũng khí chống lại, để thứ “vi trùng rất độc hại này” (chữ dùng của Hồ Chí Minh) lây lan ra phá hoại tổ chức và con người. Muốn cho dân có thể giúp cán bộ thực hành chữ liêm, xây dựng tổ chức liêm chính, cán bộ liêm chính thì công tác dân vận vào lúc này phải coi đây là một nội dung công tác trọng yếu, có tầm quan trọng chiến lược, có ảnh hưởng trực tiếp và sâu xa tới sinh mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ.
Muốn vậy, Dân vận phải góp phần phát huy vai trò của dân với tư cách là chủ thể xã hội rộng lớn và quan trọng nhất của quyền lực. Đó chính là thực hành dân chủ rộng rãi. Hồ Chí Minh đã từng xác định, thực hành dân chủ rộng rãi là chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi nhiệm vụ, vượt qua mọi khó khăn. Dân chủ và quyền làm chủ của dân là cơ sở lý luận của công tác dân vận, được Hồ Chí Minh trình bày ngay ở phần mở đầu tác phẩm “Dân vận”. Để làm được như vậy, cán bộ dân vận mà theo đúng chỉ dẫn của Hồ Chí Minh - ai ai cũng phải làm dân vận chứ không phó mặc cho một vài cán bộ chuyên trách - phải gương mẫu thực hiện chữ liêm. Công tác dân vận, nhất là dân vận chính quyền phải góp phần thiết thực và có hiệu quả trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, các tiêu cực và tệ nạn xã hội mà Đảng ta quyết tâm đẩy mạnh. Có đầy lùi được quan liêu, tham nhũng, nhất là tham nhũng thì mới làm cho Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, mới củng cố và giữ vững được niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ ta. Nói như Bác Hồ, một tấm gương sống còn quý giá và có tác dụng hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền. Chống tham nhũng là sự tuyên chiến trực tiếp vào thói tệ bất liêm, bất chính. Sự gương mẫu, trong sạch của cán bộ dân vận là tác động trực quan rõ nhất để thuyết phục quần chúng, tạo niềm tin và thúc đẩy quần chúng tham gia vào công tác xây dựng Đảng, Chính quyền và Đoàn thể. Cho nên, muốn “dân vận khéo” để “việc gì cũng thành công”, khó mấy, có dân giúp sức cũng giải quyết được thì điểm mấu chốt là làm cho dân tin, dân giúp đỡ, dân ủng hộ bởi dân trực tiếp được thuyết phục, được cổ vũ từ những tấm gương đạo đức của người làm dân vận, “thật thà nhúng tay vào việc”, biết gần dân, tin dân, trọng dân, giúp đỡ dân, không bỏ sót một việc gì, một người nào. “Dân vận khéo” vừa bắt nguồn vừa là kết quả của tinh thần trách nhiệm, tận tụy, tâm huyết với dân, của sức mạnh nêu gương đạo đức mà mỗi cán bộ dân vận là hiện thân sinh động. Vậy, tác động của công tác dân vận đến với dân, làm cho dân giúp cán bộ thực hiện chữ liêm như thế nào?
Trước hết, Dân vận làm cho dân hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, tin vào khả năng của mình trong xây dựng chính thể, xây dựng Đảng bằng cách có tiếng nói tích cực và xây dựng để giúp cán bộ trở nên liêm chính, không biến mình thành kẻ bất liêm, bất chính. Dân sống ở cơ sở, dân trực tiếp quan sát, giám sát mọi việc làm, mọi hành vi của cán bộ, biết rõ thật giả, đúng sai, tốt xấu của những người đại diện cho mình. Tiếng nói của dân là khách quan. Dư luận xã hội từ dân chúng sẽ tạo ra áp lực cần thiết cho cán bộ phải điều chỉnh, bỏ cái sai, theo cái đúng, làm việc lợi cho dân, tránh điều hại tới dân. Dân giúp cho tổ chức Đảng và Nhà nước hiểu rõ thực trạng cán bộ, đánh giá, sử dụng cán bộ cho đúng và xử lý cán bộ cho nghiêm theo đúng kỷ cương phép nước, tuyệt đối không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Đó là thể hiện sự tôn trọng thực sự quyền của dân và thực hiện dân chủ thực chất chứ không hình thức.
Thứ hai, Dân vận phải bảo đảm cho dân biết rõ thông tin, nói rõ sự thật, tạo điều kiện cho dân bày tỏ nguyện vọng, yêu cầu chính đáng của mình, biết lắng nghe và tiếp nhận những đề xuất, sáng kiến của dân trong việc lựa chọn, đánh giá cán bộ, trọng dụng người có đức, có tài, vì dân, có uy tín thực sự với dân, được dân tin cậy đồng thời loại bỏ những sâu mọt của dân, do dân phát hiện để kịp thời làm trong sạch bộ máy, cũng đồng thời bảo vệ cán bộ tốt, ngăn chặn những kẻ bất minh, bất liêm, bất chính len lỏi bằng mọi thủ đoạn để lọt vào bộ máy, gây hại cho dân, làm hoen ố thanh danh của Đảng.
Thứ ba, Dân vận phải tạo ra phong trào và lực lượng để tập hợp dân, đoàn kết dân, quy tụ sự đồng tâm nhất trí trong dân, trong cộng đồng xã hội, thực hiện thi đua ái quốc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, hết sức coi trọng thi đua cần kiệm liêm chính, lấy những tấm gương người tốt, việc tốt làm động lực phát triển và lan tỏa sức mạnh, tác dụng của phong trào trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ tư, công tác dân vận bằng thực tiễn đổi mới nội dung, phương pháp và phong cách hoạt động của mình mà thu hút sự hưởng ứng của toàn dân thực hiện đúng quy chế dân chủ ở cơ sở với các yêu cầu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng” để đảm bảo vững chắc “Dân chủ - đoàn kết - đồng thuận” trong xã hội. Tác dụng và kết quả thực tiễn của dân vận là làm cho ý Đảng - lòng dân - phép nước gắn kết hài hòa, thành sức mạnh của quyết tâm, gây dựng tín tâm, tạo ra đồng tâm giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ. Nó biểu hiện thành ổn định chính trị - xã hội tích cực, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển cả kinh tế, xã hội, văn hóa để phục vụ tốt nhất cuộc sống vật chất tinh thần của dân. Đó cũng là đóng góp của công tác dân vận vào việc tạo ra môi trường xã hội lành mạnh về đạo đức, về văn hóa tinh thần, vừa giải quyết sự xuống cấp của đạo đức xã hội vừa giúp cho cán bộ thực hiện liêm chính. Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở đã được Quốc hội thông qua, chính thức có hiệu lực, đi vào cuộc sống thì vai trò của Dân và Dân vận càng có điều kiện thực thi tốt hơn cả về phương diện pháp lý và nhân văn. Đó là những đặc tính bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thứ năm, Dân vận, nhất là cơ quan tham mưu về công tác dân vận của Trung ương Đảng (Ban Dân vận Trung ương) cần chủ động sáng tạo tham gia xây dựng Đảng về đạo đức, về văn hóa, theo chuẩn mực “Đảng là đạo đức, là văn minh”, làm cho cán bộ đảng viên của Đảng cầm quyền thực sự coi trọng giáo dục, thức tỉnh lương tâm, danh dự, giáo dục lòng tự trọng, giáo dục liêm sỉ, tự mình bảo vệ phẩm giá của mình để nêu cao dũng khí đánh bại chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, trọn đời Trung - Hiếu với Đảng, với Dân./.
GS.TS. HOÀNG CHÍ BẢO
Chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
(Tạp chí Dân vận, số Xuân Quý Mão - tháng 1+2/2023)
-----------------------
1, 2. Phạm Văn Đồng, “Hồ Chí Minh, Tinh hoa và khí phách của dân tộc”. NXB CTQG, 2012; tr.375.
3, 5, 8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, 15 tập, CTQG, 2011, tập 2, tr.280, tr.546-548, tr.611-616, tr.674, 675.
4. 9, 10, 11, 12, 13. Hồ Chí Minh, Sđd, Tập 5, Tr 112-128, tr.271-346; tr.122; tr.122; tr.123; tr.292; tr.292.
6, 7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.270; tr.357.
14 - 25. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 6, tr.126; tr.126-127; tr.126-127; tr.126-127; tr.126-127; tr.127, tr.126; tr.127; tr.127 ; tr.127; tr.127; tr.127.