|
Đồng chí Nguyễn Thế Trung, Ủy viên BCH Trung ương Đảng
Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Dân vận Trung ương
|
Phóng viên: Thưa đồng chí, Nghị quyết 25 được đánh giá là dấu mốc quan trọng trong lịch sử công tác dân vận của Đảng. Xin đồng chí cho biết những điểm mới của Nghị quyết 25 so với các nghị quyết về công tác dân vận trước đây?
Đồng chí Nguyễn Thế Trung: Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta đều kịp thời đề ra chủ trương, giải pháp phù hợp đối với công tác dân vận. Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết về công tác dân vận nói chung, về các giai tầng xã hội, các giới nói riêng. Trong đó, Nghị quyết 8B-NQ/TW ngày 27/3/1990 Hội nghị TW 8 khóa VI về Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân là nghị quyết rất quan trọng, định hướng công tác dân vận của Đảng, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội trong hơn hai mươi năm đổi mới đất nước vừa qua.
Trên cơ sở kế thừa các quan điểm cốt lõi của Nghị quyết 8B; xác định rõ mục tiêu công tác dân vận trong tình hình mới, Nghị quyết 25 được xây dựng công phu, khoa học với những phương pháp tiếp cận mới, với những quan điểm mang tính chất đột phá, đánh dấu bước tiến về tư duy lý luận và thực tiễn của Đảng, thể hiện ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, Nghị quyết sử dụng thống nhất cụm từ "công tác dân vận" thay cho các cụm từ "công tác quần chúng" như trong Nghị quyết 8B và cụm từ công tác vận động nhân dân như trong một số nghị quyết chuyên đề khác về công tác vận động quần chúng. Bởi dùng từ “dân vận” chính là để thực hiện đầy đủ nhất, đúng nhất khái niệm “Dân vận” trong tư tưởng của Bác Hồ: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể giao cho”. Đây là một tiêu điểm nhận thức, cần được quán triệt sâu sắc. Đối tượng của công tác dân vận được xác định là mọi tổ chức, thành viên trong xã hội.
Đồng thời, từ trước đến nay, Đảng ta đã thành lập và đặt tên cho cơ quan tham mưu của Trung ương về công tác dân vận là ban dân vận. Ban dân vận được xác định là một trong những ban xây dựng đảng, thống nhất từ Trung ương đến cấp huyện trong phạm vi cả nước.
Thứ hai, Nghị quyết mang tính toàn diện, hệ thống, sâu sắc về công tác dân vận
Nghị quyết vừa đánh giá rõ tình hình sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận, vừa đánh giá rõ thực trạng tình hình nhân dân. Nhìn thẳng vào hiện thực, chỉ ra nguyên nhân hạn chế, yếu kém; đề ra mục tiêu, hệ thống quan điểm và giải pháp để tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận, bao gồm cả đối tượng, nội dung, phương pháp dân vận... cả trước mắt và lâu dài.
Nội dung nghị quyết bao quát cả phần đánh giá và phương hướng về sự lãnh đạo của Đảng đối với các giai cấp, giai tầng xã hội, chú trọng đến các vấn đề mới nảy sinh, tồn tại bất cập của xã hội. Đó là sự tổng hợp nhiều nội dung quan trọng của các nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị về công tác vận động quần chúng đã ban hành trước đây trên cơ sở quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận trong bối cảnh hiện nay, nhất là tư tưởng “lấy dân làm gốc”, phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ ba, kế thừa những quan điểm cốt lõi trước đây, Nghị quyết bổ sung một số quan điểm chỉ đạo mới về công tác dân vận, như:
Nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ - khẳng định, nhấn mạnh thêm vị trí, vai trò và trách nhiệm to lớn của nhân dân đối với sự phát triển của đất nước, làm chủ vận mệnh đất nước.
Chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân, huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Đó là chiến lược nuôi dưỡng, sử dụng “tài nguyên” sức dân của đất nước.
Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, trong đó, “Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt”. Có thể nói việc phân định rõ trách nhiệm trong công tác dân vận là một trong những điểm đột phá của Nghị quyết 25.
Nghị quyết 25 cũng đã đưa ra một quan điểm mới: “Phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn liền với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu để nhân dân tin tưởng, noi theo”. Quan điểm này vừa xác định rõ công tác dân vận là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng, Nhà nước, vừa quán triệt sâu sắc tư tưởng “lấy dân làm gốc” khi quyết định, ban hành các chủ trương, chính sách. Đặc biệt đề cao việc nêu gương của cán bộ, đảng viên trong tình hình hiện nay cũng như phương pháp tập hợp nhân dân, để “sao cho được lòng dân”, thuận hòa lòng dân - ý Đảng.
Thứ tư, công tác dân vận của các cơ quan nhà nước được đề cao và xác định rõ trong quá trình tổ chức thực hiện công tác dân vận
Quan điểm thứ 5 trong Nghị quyết nêu: Nhà nước tiếp tục thể chế hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành quy chế, quy định để các tổ chức trong hệ thống chính trị; cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang thực hiện công tác dân vận. Đồng thời, đưa ra riêng một giải pháp về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà nước trên cơ sở lấy nhân dân làm đối tượng phục vụ; lấy sự hài lòng của nhân dân làm thước đo hiệu quả công việc. Các cơ quan nhà nước thực hiện tốt công tác dân vận đồng nghĩa với việc góp phần làm minh bạch hóa đời sống xã hội, hướng tới mục tiêu dân chủ, công bằng, văn minh.
Phóng viên: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận được thể hiện sâu sắc nhất qua những nội dung nào trong Nghị quyết 25, thưa đồng chí?
Đồng chí Nguyễn Thế Trung: Nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức - cán bộ; tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc chính đáng của nhân dân. Theo đó, phải kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết TW 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” gắn với các cuộc vận động, chỉnh đốn, xây dựng Đảng. Đồng thời, phát huy sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, để Đảng thực sự giữ vững vai trò tiền phong, gương mẫu của mình trước nhân dân. Đó cũng chính là một trong những phương pháp lãnh đạo của Đảng.
Hai là, tăng cường lãnh đạo công tác thông tin, tuyên truyền. Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho cán bộ, đảng viên nắm vững, kiên định với mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ công tác dân vận trong bối cảnh hiện nay, tạo động lực để nhân dân đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Trong quá trình tổ chức học tập nghị quyết, cần có sự thảo luận, trao đổi, giải đáp nhằm đi đến thống nhất cao trong nhận thức. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, cần tăng cường lãnh đạo, quản lý công tác tuyên truyền, nhất là quản lý mạng xã hội; kịp thời định hướng dư luận.
Ba là, tăng cường công tác dân vận của các cơ quan nhà nước. Trước hết các cơ quan nhà nước cần kịp thời thể chế hóa các quan điểm, chủ trương mới của Đảng về dân vận thành các văn bản pháp luật để thực hiện. Thực hiện nền nếp Quy chế dân chủ ở cơ sở; cải cách thủ tục hành chính theo hướng công khai, minh bạch, nhanh gọn, hiệu quả để tiết kiệm các nguồn lực cho xã hội. Cán bộ, công chức, viên chức phải có trách nhiệm vận động nhân dân, chấn chỉnh thái độ phục vụ nhằm tăng “chỉ số hài lòng” của nhân dân. Chủ động nắm tình hình, tăng cường tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với dân; tập trung giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc trong nhân dân và xã hội.
Bốn là, tăng cường lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, nhất là phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và các phong trào thi đua do Mặt trận, các đoàn thể phát động, tạo không khí phấn khởi trong các tầng lớp nhân dân hướng vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Năm là, tăng cường phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác dân vận. Đây là một nội dung quan trọng của Nghị quyết 25 về công tác dân vận; cũng chính là trách nhiệm của các thành viên trong hệ thống chính trị theo tinh thần Quyết định 290-QĐ/TW ngày 25/02/2010 của Bộ Chính trị khóa X.
Sáu là, tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ ban dân vận, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện nay. Theo đó, cần nghiên cứu cơ chế, chính sách thu hút người có năng lực, uy tín, kinh nghiệm công tác dân vận; khắc phục tình trạng đưa cán bộ phẩm chất, năng lực yếu kém và không có uy tín về làm công tác dân vận.
Bảy là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và giám sát việc thực hiện công tác dân vận. Thường xuyên nắm bắt tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Các cơ quan Trung ương có cơ chế phối hợp kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình triển khai thực hiện nghị quyết, trong đó có việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác dân vận và kết quả giải quyết các vấn đề bức xúc trong nhân dân.
Phóng viên: Đồng thời với “tăng cường”, Nghị quyết 25 cũng rất chú trọng về “đổi mới” - Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới. Xin đồng chí cho biết cụ thể hơn về nội dung này?
Đồng chí Nguyễn Thế Trung: Đổi mới là một đòi hỏi tất yếu của thực tiễn cuộc sống. Bởi vậy, công tác dân vận trong tình hình mới cũng cần phải có những đổi mới để thích ứng, tạo ra những động lực mới cho sự phát triển.
Trước nhất, cần đổi mới công tác học tập, quán triệt Nghị quyết theo ba công đoạn: quán triệt, thảo luận tại chi bộ và tổ chức giải đáp để tạo sự nhận thức sâu sắc hơn nội dung của Nghị quyết. Đối với cấp huyện, thành phố, thị xã và cơ sở phải gắn học tập, quán triệt Nghị quyết Trung ương với quán triệt nội dung chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của tỉnh, thành phố. Cần nghiên cứu chỉ đạo cấp cơ sở bố trí thời gian học tập Nghị quyết dài hơn để truyền đạt, phân tích cụ thể hơn so với đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các đảng bộ cấp trên cơ sở.
Nội dung định hướng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội cần được đổi mới sát với từng giai cấp, từng tầng lớp nhân và từng thời kỳ cách mạng. Nội dung hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể phải thiết thực, đặt trọng tâm vào bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên, nhất là trong giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, doanh nhân…; xây dựng sự đoàn kết, nhất trí, tạo sự gắn bó trong tổ chức. Các đoàn thể nhân dân đổi mới tổ chức bộ máy và cán bộ theo hướng coi trọng chất lượng, xây dựng cơ sở vững mạnh. Hình thức tập hợp, vận động nhân dân phải đa dạng, phong phú, khoa học và hiệu quả.
Nội dung và cách thức phát động các phong trào thi đua yêu nước cần được đổi mới theo hướng: các cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân bám sát nhiệm vụ chính trị, nắm bắt lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân để xác định nội dung và lựa chọn cách thức vận động sát với thực tế của địa phương, đơn vị với các hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với từng đối tượng, thời điểm; sáng tạo trong lồng ghép, kết hợp các phong trào thi đua, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, thực sự mang lại lợi ích vật chất, tinh thần cho nhân dân. Qua tổ chức phong trào thi đua quan tâm xây dựng, phát hiện các điển hình, gương người tốt, việc tốt trên các lĩnh vực để nhân rộng.
Trong công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, cần giải đáp kịp thời những vấn đề nảy sinh trong công tác dân vận. Tình hình mới đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến công tác dân vận, cần tiếp tục nghiên cứu và tổng kết như: Cơ chế để phát huy quyền làm chủ của nhân dân nhằm thực hiện tốt phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; mối quan hệ Đảng - Dân trong tình hình mới… Chú trọng công tác khảo sát, điều tra, dự báo các vấn đề liên quan đến công tác dân vận.
Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ làm công tác tham mưu về dân vận. Các cấp ủy đảng cần xác định đúng đắn vị trí, vai trò công tác dân vận, từ đó có kế hoạch chăm lo xây dựng, lựa chọn, quy hoạch, bố trí cán bộ có đủ uy tín, năng lực làm cán bộ dân vận. Đồng thời, xây dựng bộ máy theo hướng tinh gọn, tăng cán bộ nghiên cứu, tham mưu; xây dựng đội ngũ chuyên gia tham mưu sâu về các lĩnh vực công tác dân vận, nhất là công tác dân tộc, tôn giáo, vận động trí thức, doanh nhân trong tình hình mới.
Trong dịp kỷ niệm 83 năm Ngày truyền thống công tác Dân vận của Đảng và 14 năm ngày Dân vận của cả nước, mỗi tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị ôn lại những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Dân vận” gắn với việc quán triệt các nội dung của Nghị quyết 25. Xác định công tác dân vận và chăm lo lợi ích của nhân dân là một trong những nội dung chủ yếu trong hoạt động của mình, là “mệnh lệnh” tự thân của mỗi cán bộ, đảng viên. Như vậy, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân không ngừng được củng cố bền chặt, chính là yếu tố quan trọng đảm bảo thành công công cuộc đổi mới và sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
Phóng viên: Xin cảm ơn đồng chí.
Việt Hải (thực hiện)/Tạp chí Dân vận số 10/2013