Theo tinh thần
nội dung Hiến pháp năm 2013, liên quan đến dân chủ trực tiếp và dân chủ
đại diện, Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định: Thể chế hoá và nâng
cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền
con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm
2013. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến
quyền làm chủ của nhân dân. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong
phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở
cơ sở và Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 06-4-2007 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Thể chế
hóa và thực hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra, giám sát".
Đồng
thời với phát huy dân chủ là yêu cầu tăng cường pháp chế, đề cao trách
nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê
phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm
những hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự, an
toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của
nhân dân.
Dân
chủ trực tiếp - Direct Democracy là sự tham gia trực tiếp của người dân
về chính sách và quản lý, nhất là ở cấp địa phương, thông qua các cuộc
họp và các hình thức khác để họ tương tác với các cấp có thẩm quyền của
Nhà nước. Mới đầu sự tham gia của người dân tập trung vào việc cải thiện
công tác bầu cử. Hiện nay, người dân ngày càng chú trọng nhiều hơn tới
hình thức “dân chủ trực tiếp”, nhất là trong việc bầu ra các đại biểu
của mình tham gia vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Tuy nhiên,
ngay cả khi dân chủ đại diện phát triển, nếu chỉ dựa vào các điều kiện
dân chủ trong các cuộc bầu cử thì vẫn chưa đủ để bảo đảm sự tham gia của
người dân. Dân chủ đại diện có thể bị tình trạng quan liêu làm cho
nhiều người dân, đặc biệt là những người nghèo, người thuộc các dân tộc
thiểu số, vẫn chưa được hưởng quyền đại diện trong các công việc Nhà
nước, trước hết ở địa phương.
Một
hình thức dân chủ trực tiếp được nhiều người quan tâm là dân chủ tham
gia. Dân chủ tham gia, được hiểu là một hình thức tăng cường và nâng cao
chất lượng tham gia của người dân, mở rộng vai trò công dân vượt ra
ngoài phạm vi đơn thuần chỉ là cử tri đi bầu cử định kỳ. Để thực hành
dân chủ trực tiếp, người dân cần tích cực hơn trong việc nắm bắt thông
tin (dân biết), tham gia thảo luận (dân bàn), triển khai (dân làm), kiểm
tra, giám sát (dân kiểm tra) các chủ trương, đường lối, chính sách,
biện pháp quy hoạch, phát triển kinh tế và xã hội ở địa phương.
Nghị
định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11-5-1998 (được sửa đổi bằng Nghị định số
79/2003/NĐ-CP ngày 07-7-2003) ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn và sau đó là Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở cơ sở xã,
phường, thị trấn, đã phân biệt những mức độ tham gia khác nhau của
người dân địa phương vào hoạt động của chính quyền và các quyết định
quản lý. Cụ thể:
- “Dân biết”: Là những loại thông tin bắt buộc phải phổ biến cho người dân, nhất là về quản lý đất đai và ngân sách.
-
“Dân bàn”: Những việc người dân bàn mà không cần có sự tham gia của các
cấp chính quyền cao hơn, về mức đóng góp tài chính ở địa phương và việc
xây dựng, thực hiện hương ước.
-
“Dân bàn” nhưng chính quyền địa phương quyết định về các chính sách của
Chính phủ, để các cấp chính quyền cao hơn sẽ đưa ra quyết định, bao gồm
những lĩnh vực như việc lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, phương án đền bù
quyền sử dụng đất,...
-
“Dân kiểm tra”: Là giám sát các công việc của Hội đồng nhân dân, gửi
đơn thư khiếu nại, giám sát chi tiêu ngân sách và xây dựng kết cấu hạ
tầng địa phương.
Ở
nước ta, dân chủ trực tiếp thường được thực hiện gắn liền với quá trình
phân cấp trong quản lý nhà nước. Dân chủ trực tiếp và phân cấp, ở mức
độ tốt nhất, có thể tạo cho nhiều người cơ hội tốt hơn để tham gia, bảo
vệ quyền lợi của mình, tăng cường tính hiệu quả và minh bạch trong việc
cung cấp các dịch vụ công. Hiện nay tại cấp chính quyền cơ sở, việc thực
hiện dân chủ tham gia (hay dân chủ trực tiếp) được tập trung vào việc:
tham gia lập kế hoạch, tham gia lập ngân sách và kiểm toán, tham gia
giám sát và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Kinh
nghiệm nhiều nước trên thế giới cho thấy, các hội đồng địa phương do
người dân tự bầu chọn chứng tỏ chính quyền địa phương đã được cải cách
theo hướng dân chủ.
Tất
nhiên không nhất thiết là cứ phân cấp thì sẽ tự động tạo ra được sự
tham gia tích cực của người dân. Thực tế trong thời gian qua cho thấy,
khó có thể đẩy mạnh sự tham gia của người dân mà không thực hiện cải
cách các thể chế dân chủ đại diện, để xây dựng lòng tin của người dân
vào những thể chế đó. Người dân cần có cả cơ hội để tham gia một cách
tích cực, hiệu quả, cũng như cần có các thể chế có trách nhiệm giải
trình một cách minh bạch, sao cho có thể thực sự đại diện, bảo vệ cho
quyền lợi của họ. Nói cách khác, dân chủ trực tiếp thường kết nối chặt
chẽ với việc thực hiện dân chủ đại diện và cải cách hành chính nhà nước,
để chí ít cũng hạn chế được tính quan liêu của bộ máy hành chính và
khiến các cơ quan công quyền có mối liên hệ gần gũi với dân hơn.
Để
có thể hiểu rõ các ý tưởng về sự tham gia của người dân trong công tác
quản lý cần phải xem xét mối quan hệ giữa người dân và Nhà nước. “Nhân
dân làm chủ" là một phương châm, nguyên tắc quan trọng, bất biến trong
đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước Việt
Nam.
Cho
đến nay cũng có một số ý kiến cho rằng, dân chủ tham gia (dân chủ trực
tiếp) ở Việt Nam vẫn còn hình thức, như tình trạng không độc lập của các
tổ chức xã hội, tình trạng kém phát triển của pháp quyền, và vẫn còn ít
các kênh chính thức để tiếng nói của người dân có thể được lắng nghe,
tiếp thu trong quá trình thể chế hóa chủ trương, chính sách, pháp luật.
Theo đánh giá của một số tổ chức quốc tế, Việt Nam thường có thứ hạng
khá thấp về “dân chủ”, ví dụ trong các đánh giá được công bố bởi tổ chức
Freedom House (Ngôi nhà Tự do); hoặc báo cáo của Viện Nghiên cứu của
Ngân hàng thế giới trong những năm gần đây xếp Việt Nam trong nhóm thứ
tư, tức nhóm thấp nhất theo tiêu chí: “tiếng nói và trách nhiệm giải
trình”.
Tuy
vậy, khi xem xét kỹ các thước đo này thì thấy “tiếng nói và trách nhiệm
giải trình” chỉ được các tổ chức quốc tế căn cứ theo hai yếu tố: bầu cử
cạnh tranh và sự tồn tại của đảng đối lập. Nói cách khác, các tổ chức
quốc tế đã áp dụng một thước đo rất hạn chế, và không xem xét tiêu chí
“tiếng nói và trách nhiệm giải trình” thông qua dân chủ trực tiếp hoặc
các hình thức dân chủ đại diện của người dân Việt Nam. Những đánh giá
chung chung theo kiểu này về “dân chủ” chỉ dựa trên hệ thống đa đảng
phái hoặc các loại hình bầu cử sẽ không thể khắc họa được một bức tranh
đúng đắn và hoàn chỉnh về cách thức tham gia của người dân Việt Nam vào
đời sống dân chủ trong thời kỳ đổi mới.
Cách
thức tiếp cận và đánh giá hợp lý hơn cả là xem xét việc thực hành dân
chủ của người dân Việt Nam dưới góc độ văn hóa chính trị đặc thù liên
quan tới lịch sử và con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Do đó, đòi hỏi phải xem xét tư tưởng dân chủ và các
hình thức tham gia của chính người dân Việt Nam trong thực tế thay vì
xuất phát từ những tư tưởng dân chủ được “nhập khẩu” từ nước ngoài.
Trên
thực tế, có thể chỉ ra sự tương phản giữa thứ hạng thấp mà Việt Nam bị
xếp theo điều tra của các tổ chức quốc tế về dân chủ, tự do với sự đánh
giá cao mà chính các công dân Việt Nam dành cho hệ thống chính trị ở
Việt Nam. Trong các cuộc điều tra dư luận xã hội của các tổ chức khác
nhau tại Việt Nam, kể cả điều tra của một số tổ chức nước ngoài(1), kết
quả cho thấy người dân tỏ ra tin tưởng cao đối với Nhà nước. Hơn 90% số
người được thăm dò trả lời tin tưởng vào Chính phủ, Quốc hội và Đảng.
Các nhà điều tra của cuộc Điều tra về giá trị thế giới cho biết: mức độ
tin tưởng vào thể chế chính trị của Việt Nam là rất cao khi so sánh với
đa số các nước khác ở vùng Đông Á. Một điểm cần nhấn mạnh hơn khi 96% số
người Việt Nam được hỏi trả lời tích cực về hệ thống quản lý nhà nước.
Thực
tế xây dựng và thực hành dân chủ trực tiếp ở cơ sở tại Việt Nam cũng
tương đồng với nhiều nước trên thế giới. Nhìn chung, mục tiêu đề ra của
nhiều nước là khuyến khích sự tham gia của người dân, trước tiên ở cấp
hành chính thấp nhất, nơi mà người dân gần gũi nhất với các thể chế có
tác động đến cuộc sống của họ. Tại Việt Nam cũng như nhiều nước, sự tham
gia của người dân vào công tác quản lý ở địa phương diễn ra từ mức độ
tham vấn hạn chế (dân bàn) cho tới sự tham gia và kiểm soát tích cực
(làm và kiểm tra).
Dân
chủ tham gia (dân chủ trực tiếp) thường được khởi nguồn từ dưới lên,
nhằm đáp ứng những đòi hỏi của người dân. Cách tiếp cận từ trên xuống
cũng được Chính phủ Việt Nam coi trọng với tính cách là một phương tiện
để tăng cường mức độ đáp ứng của Chính phủ, và mở ra những không gian
mới cho sự tham gia của người dân, đặc biệt về việc cung cấp các dịch vụ
công.
Ví
dụ, Bộ luật chính quyền địa phương được thông qua ở Philippines năm
1991 quy định sự chuyển giao thẩm quyền và nguồn lực từ chính quyền
trung ương cho các Hội đồng phát triển địa phương và về sự tham gia trực
tiếp của người dân trong các cơ quan này. Ở Ấn Độ, bản Hiến pháp sửa
đổi được thông qua năm 1993 công nhận các thể chế địa phương như là cấp
thứ ba trong chính quyền, đồng thời thể chế hoá sự tham gia của người
dân trong các cơ quan đó(2).
Tại
Việt Nam, khuôn khổ pháp lý đầu tiên về dân chủ tham gia không phải là
kết quả của sức ép từ phía xã hội dân sự như trong trường hợp của các
nước láng giềng (ví dụ Philippines). Các Nghị định về quy chế thực hiện
dân chủ ở cơ sở (năm 1998, 1999) là kết quả của những thảo luận cấp cao
của Đảng, Nhà nước sau khi xảy ra một vài vụ mất ổn định ở một số địa
bàn nông thôn. Như vậy, sự tác động từ dưới lên kết hợp với quyết định
từ trên xuống là cách thức phát triển dân chủ trực tiếp và cả gián tiếp ở
Việt Nam. Đây tiếp tục là phương châm chỉ đạo quá trình thực hiện, phát
huy dân chủ trực tiếp ở nước ta, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng./.
---------------------------------------------------
Chú thích:
(1)
Ví dụ: Điều tra về giá trị thế giới (World Values) được tiến hành lần
đầu tiên tại Việt Nam vào năm 2001. Điều tra này là một công cụ xuyên
văn hóa để đo lường mức độ thỏa mãn của người dân với cuộc sống và đất
nước mình và tìm cách đánh giá sự ủng hộ đối với các giá trị xã hội,
kinh tế và chính trị; điều tra được tiến hành tại nhiều nước trên thế
giới từ vài thập kỷ nay dựa trên mẫu ngẫu nhiên của khoảng 1.000 người
trả lời điều tra trên khắp Việt Nam.
(2)
Xem Antlov. H và các tác giả khác (2004): Sự tham gia của người dân
trong quản trị địa phương: Kinh nghiệm của Thái Lan, Indonesia và
Philippines.
Nguồn: tapchicongsan.org.vn, ngày 29/2/2016