Thứ Năm, 25/4/2024
Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong tình hình hiện nay

Quan hệ giữa Đảng với nhân dân được hình thành do đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng. Đây là mối quan hệ rất đặc biệt: Đảng vừa là người lãnh đạo, cầm quyền, vừa là người phục vụ nhân dân, còn nhân dân tự giác đồng tình với sự lãnh đạo của Đảng, lại là chủ nhân của đất nước. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Cơ sở lý luận và thực tiễn của mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đề cao vai trò của quần chúng nhân dân, coi sức mạnh của quần chúng nhân dân là vô địch; muốn lãnh đạo cách mạng đảng phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân; cách mạng muốn thắng lợi phải được đông đảo nhân dân ủng hộ. V.I. Lê-nin khẳng định: nguồn gốc chủ yếu sức mạnh của Đảng là ở mối liên hệ mật thiết với nhân dân, đội tiền phong chỉ làm tròn được sứ mệnh lịch sử của mình một khi nó gắn bó với quần chúng mà nó lãnh đạo và thật sự dẫn dắt toàn thể quần chúng tiến lên. Người còn cảnh báo, đối với một đảng cầm quyền thì một trong những nguy cơ lớn nhất và đáng sợ nhất là đảng tự cắt đứt liên hệ với quần chúng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Chính phủ do dân cử ra, được dân ủy quyền thay mặt dân để điều hành, quản lý đất nước. Người nói: “Nước lấy dân làm gốc”, “nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ”.

Là chủ và làm chủ là hai mặt của vấn đề dân chủ. Dân đã là chủ thì dân phải làm chủ, có quyền làm chủ. Bởi lẽ nếu dân không được làm chủ thì dân chủ chỉ là hình thức. Như vậy, quyền làm chủ bao trùm của dân là làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, làm chủ vận mệnh của chính mình, làm chủ thực chất chứ không phải làm chủ hình thức. Đây chính là quyền dân chủ trong chế độ ta. Đã là người chủ thì không phải chỉ có quyền mà còn có nghĩa vụ, có trách nhiệm của người chủ, của người công dân được làm chủ. “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân”.

Phát huy truyền thống của ông cha ta qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đưa ra quan điểm hết sức đúng đắn: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ”. Quan điểm đó khẳng định vị trí, tầm quan trọng đặc biệt của mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Chính nhờ quán triệt sâu sắc quan điểm trên nên Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng các kẻ thù xâm lược và đạt được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Thực trạng mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân hiện nay

Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Đảng Cộng sản Việt Nam đánh giá: “Công tác dân vận được đẩy mạnh, góp phần tạo sự đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường”(1). Có được thành tựu, kết quả đó là do:

Thứ nhất, Đảng đã lãnh đạo cả hệ thống chính trị, chăm lo thực sự đến lợi ích vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân. An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, y tế có bước phát triển, kết cấu hạ tầng được tăng cường, nhất là giao thông, điện, nước sạch,... Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm đạt trên 5,9%/năm. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng lên. Trên cơ sở đó, Đảng, Nhà nước có điều kiện để thực hiện chăm lo, cải thiện được đời sống vật chất và tinh thần của người dân - yếu tố hết sức quan trọng góp phần củng cố, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.

Thứ hai, Đảng đã có nhiều chủ trương, biện pháp để phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Ban Chấp hành Trung ương khóa XI ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 3-6-2013, “Về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30-CT/TW “Về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”; Quyết định số 217-QĐ/TW “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”; Quyết định số 218-QĐ/TW “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”. 

Trên cơ sở các chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã thể chế hóa thành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Các hình thức thực hiện dân chủ từng bước được hoàn thiện và được bảo đảm bằng Hiến pháp, pháp luật. Dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức nhà nước, đoàn thể và xã hội, trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan dân cử được mở rộng. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý các hành vi vi phạm quyền dân chủ được chú trọng hơn.

Việc Chính phủ ban hành và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở trong các loại hình cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã góp phần tích cực vào quá trình phát huy quyền làm chủ của nhân dân vào xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững ổn định chính trị, củng cố, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Thứ ba, Đảng đã tập trung lãnh đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, giải quyết kịp thời những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân, tổ chức tốt việc tiếp công dân, đối thoại với công dân và giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân.

Xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài, Trung ương đã kiện toàn, tăng cường các cơ quan chức năng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết nhiều vụ án tham nhũng có kết quả, góp phần răn đe, ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí vừa qua. Các cơ quan hành chính, chính quyền các cấp đã tập trung giải quyết kịp thời, đúng pháp luật nhiều đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân, nên số lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo giảm. Người đứng đầu các ngành, địa phương, đơn vị đã tổ chức tiếp công dân, đối thoại với công dân theo định kỳ có kết quả. 

Tổ chức đảng, cấp ủy các cấp quan tâm lãnh đạo đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phát huy vai trò của các cơ quan dân cử. Các phương tiện truyền thông đại chúng đã dựa vào nhân dân, đồng hành với nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, góp phần tích cực củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Thứ tư, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả tích cực.

Thời gian qua, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng tạo môi trường, điều kiện thuận lợi và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đảng, Nhà nước ta đã kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của đất nước; quản lý và xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển với các nước láng giềng; tăng cường hợp tác và đối thoại chiến lược với nhiều đối tác, đưa quan hệ hợp tác với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn. Đồng thời, chủ động tham gia tích cực, có trách nhiệm trong các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế, nhất là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc. Tích cực triển khai các hiệp định, thỏa thuận thương mại đã có và đàm phán, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới để mở rộng, đa dạng hóa thị trường, thúc đẩy phát triển và nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế. Kiên trì thúc đẩy giải quyết các tranh chấp trên biển bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực. Uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên.

Những kết quả, thành tựu nổi bật trên đây đã góp phần quyết định vào việc tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân trong điều kiện đất nước ta đang tích cực và chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng.

Tuy nhiên, đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là của đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng biên cương, hải đảo, còn nhiều khó khăn. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo còn cao, khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư còn lớn. Số người thiếu việc làm và việc làm không ổn định còn nhiều, nhất là ở khu vực nông thôn. Nhiều sinh viên tốt nghiệp ra trường hiện nay rất khó khăn trong tìm việc làm. Số đơn, thư khiếu nại tố cáo của công dân về đền bù giải phóng mặt bằng đất đai còn lớn. Tai nạn giao thông giảm chậm. Ô nhiễm môi trường ở một số nơi còn nghiêm trọng. Quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm còn yếu. Tình trạng tham nhũng còn phức tạp... Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ, đảng viên quan liêu, xa dân, chỉ lo thu vén cá nhân, làm giàu bất chính, thậm chí có người vô trách nhiệm với dân, vô cảm trước những khó khăn của quần chúng nhân dân. Một số cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên trực tiếp tiếp xúc, làm việc với dân thì cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân. Một số người có chức, có quyền chẳng những không gương mẫu mà còn nêu gương xấu trước quần chúng, nói không đi đôi với làm, bố trí, đề bạt con cháu, người thân vào các chức vụ quan trọng mà không tương xứng với năng lực, trình độ, uy tín... Những biểu hiện này làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.

Hội nhập quốc tế và những tác động đến mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; coi hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị. Văn kiện Đại hội XII của Đảng nêu khái quát “Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”. Trên cơ sở đó, hội nhập quốc tế đã có nhiều tác động quan trọng đến mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.

1- Về thời cơ

Thứ nhất, việc Việt Nam mở rộng quan hệ ngoại giao với 185 thành viên Liên hợp quốc và xây dựng được khuôn khổ quan hệ toàn diện và chiến lược với tất cả các nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và với các nước Đông Nam Á; gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007, có quan hệ thương mại với 230 quốc gia, vùng lãnh thổ; tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) mở ra vận hội mới trên con đường hội nhập quốc tế sâu rộng hơn. Trên cơ sở đó Việt Nam có thêm cơ hội tranh thủ các nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế nhờ tăng quy mô, tạo điều kiện hình thành những doanh nghiệp lớn, khuyến khích tinh thần đổi mới, sáng tạo, phong trào khởi nghiệp của mọi người dân và nâng tầm trình độ phát triển của nền kinh tế đất nước; giải quyết nhiều việc làm cho người lao động, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.

Thứ hai, hội nhập quốc tế có tác động tích cực nhất vào lĩnh vực phát triển khoa học - công nghệ, nhất là khi thế giới đang bước vào làn sóng công nghiệp lần thứ tư, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, tăng năng suất lao động, tăng chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, trên cơ sở đó tăng thu nhập cho công nhân, người lao động, các giai tầng xã hội và góp phần làm cho nhân dân gắn bó hơn với Đảng.

Thứ ba, hội nhập quốc tế càng sâu rộng, tác động của sự bùng nổ thông tin đối với các quốc gia, với các tầng lớp nhân dân càng nhiều, nhất là sự phát triển của in-tơ-nét, các phương tiện truyền thông, nên mọi sự kiện về khoa học - công nghệ, văn hóa, kinh tế, chính trị..., diễn ra trên thế giới và trong nước đều được đông đảo người dân, nhất là thanh niên cập nhật nhanh chóng, góp phần nâng cao trình độ dân trí, trình độ ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, tiến bộ xã hội, văn minh nhân loại đối với người dân, qua đó giúp người dân gắn bó với Đảng hơn.

Thứ tư, hội nhập quốc tế tác động mạnh mẽ đến cơ cấu xã hội liên quan các giai cấp, giai tầng xã hội, như công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ..., làm cho số lượng, chất lượng các giai tầng xã hội thay đổi nhanh chóng. Xu hướng chung là tăng nhanh về số lượng và chất lượng giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức, doanh nhân và giảm dân số nông thôn, lao động nông nghiệp, tăng dân số đô thị, tăng lao động làm việc ở các ngành dịch vụ, công nghiệp... Sự thay đổi mạnh mẽ cơ cấu xã hội, chất lượng, số lượng các giai tầng xã hội đã góp phần tác động sâu sắc mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.

Thứ năm, hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam tham gia nhiều tổ chức quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, ASEAN, tổ chức Nhân quyền quốc tế,... và có điều kiện để thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, góp phần tăng cường, bảo vệ chủ quyền quốc gia, tạo niềm tin cho các tầng lớp nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. 

2- Về thách thức

Thứ nhất, ở khu vực hội nhập quốc tế dẫn đến có sự cạnh tranh chiến lược gay gắt, nhất là Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương, nếu Việt Nam không có chính sách đối ngoại phù hợp, sáng tạo, thì có thể bị lôi kéo vào các cuộc xung đột gây tổn hại đến lợi ích dân tộc, đến sinh mạng và đời sống của người dân.

Thứ hai, hội nhập quốc tế sẽ mở ra thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường tiền tệ, thị trường lao động, thị trường khoa học - công nghệ,... liên thông tốt hơn với thị trường quốc tế. Tuy nhiên, nếu Việt Nam không nỗ lực vượt lên để có nhiều sản phẩm có thương hiệu, không khắc phục được tình trạng năng suất lao động thấp, chất lượng hàng hóa kém, giá thành sản phẩm cao, kinh tế tụt hậu thì sẽ trở thành thị trường tiêu thụ hàng hóa cho các nước, làm ảnh hưởng lớn đến việc làm, thu nhập, đời sống của người dân. Đó sẽ là một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Thứ ba, các thế lực thù địch cũng lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, tôn giáo, dân tộc và khai thác tối đa các phương tiện truyền thông để tuyên truyền, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. 

Một số giải pháp để tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong tình hình hiện nay

Một là, Đảng tập trung lãnh đạo Nhà nước, tổ chức thực hiện đạt và vượt các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế - xã hội mà Nghị quyết Đại hội XII đã đề ra.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã từng khẳng định: Lợi ích là động lực trực tiếp. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài phát biểu tại Hội nghị dân vận toàn quốc ngày 27-5-2016 đã chỉ rõ: Hiện nay vấn đề có ý nghĩa quyết định để tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân là Đảng phải chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời sống, lợi ích của nhân dân. 

Các mục tiêu, chỉ tiêu về kinh tế - xã hội, như tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm, GDP bình quân đầu người, tỷ trọng công nghiệp dịch vụ, tổng vốn đầu tư toàn xã hội, thu ngân sách, năng suất lao động, tỷ lệ lao động có việc làm, tỷ lệ lao động được đào tạo, tỷ lệ bác sĩ/giường bệnh, chỉ tiêu về môi trường, nước sạch,... đều gắn chặt với lợi ích của mỗi người dân. Nếu Đảng lãnh đạo, tổ chức thực hiện được các mục tiêu, chỉ tiêu trên thì sẽ cải thiện đáng kể đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Muốn thế, các cấp ủy đảng phải lãnh đạo Nhà nước, chính quyền, các tổ chức đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao, hàng hóa lớn; thực hiện hiệu quả Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; phát triển các ngành công nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất cơ bản của nền kinh tế, phát triển các ngành dịch vụ, trong đó có chính sách phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển kinh tế biển; tạo môi trường thuận lợi phát triển doanh nghiệp. 

Đi liền với phát triển kinh tế phải quan tâm phát triển văn hóa, xã hội, đặc biệt tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, y tế, xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội, quan tâm các đối tượng chính sách, người có công, cải cách chính sách tiền lương,... Trên cơ sở đó, cải thiện, nâng cao thực chất đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, góp phần củng cố, tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Hai là, Đảng tiếp tục lãnh đạo phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. 

Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Đặc biệt là các dự án luật, các nội dung quy hoạch, kế hoạch, công trình, dự án lớn liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân phải được nhân dân góp ý và tiến tới phải có cơ chế để nhân dân quyết định. Đảng tiếp tục lãnh đạo Quốc hội thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. 

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân. Sớm thể chế hóa phương châm “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và cơ chế “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, phát huy dân chủ phải gắn liền với giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội; phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức.

Phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân là tạo nguồn lực to lớn để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh, góp phần giữ vững ổn định chính trị, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân trong tình hình mới.

Ba là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Đây là một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm được xếp ở vị trí đầu tiên trong văn kiện Đại hội XII của Đảng và cũng là một nội dung hết sức quan trọng được Hội nghị Trung ương 4 khóa XII thảo luận, ban hành Nghị quyết.

Để đạt được yêu cầu trên, trước hết các cấp ủy đảng phải tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII; tăng cường giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, quản lý đảng viên thực hiện tốt nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, sống và làm việc gương mẫu, có trách nhiệm với dân, nói đi đôi với làm để nhân dân tin tưởng noi theo. Nhân dân giảm sút lòng tin đối với Đảng chủ yếu vì những đảng viên phẩm chất, đạo đức kém, vì những tổ chức cơ sở đảng không trong sạch, vững mạnh, mất sức chiến đấu. Phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ảnh hưởng quyết định đến uy tín, danh dự của Đảng, tác động trực tiếp đến mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Các cấp ủy phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Đảng, để thiết thực đưa nghị quyết vào cuộc sống. Đặc biệt, phải có cơ chế kiểm soát quyền lực, lãnh đạo các cơ quan nhà nước thực thi pháp luật nghiêm túc, có hiệu quả. Tăng cường giám sát những người có chức, có quyền, nhất là người đứng đầu các ngành, các cấp để ngăn ngừa, cảnh báo, phê phán những việc làm sai trái. Đấu tranh mạnh mẽ chống chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, vi phạm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Kiên quyết xử lý, thay thế kịp thời những cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nêu gương xấu trước quần chúng. 

Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và giải quyết kịp thời những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân.

Xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng; đồng thời, là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, trước hết là của những người đứng đầu. Thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng. Sớm đưa ra xét xử các vụ án nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng để làm gương, răn đe những người vi phạm pháp luật.

Hiện nay, một bộ phận lớn nhân dân rất bức xúc về đời sống thấp, thu nhập giảm, thất nghiệp tăng, tai nạn giao thông còn lớn, ô nhiễm môi trường nặng, an toàn vệ sinh thực phẩm không tốt. Các cấp ủy đảng phải lãnh đạo các cơ quan chức năng của Nhà nước, chính quyền các cấp tập trung giải quyết kịp thời, đúng pháp luật để làm chuyển biến tình hình. Nếu không giải quyết tốt những bức xúc trên thì rất dễ xảy ra “điểm nóng”, ảnh hưởng đến an ninh trật tự, đến ổn định chính trị. Trong tình hình hiện nay, nếu Đảng lãnh đạo có hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và chỉ đạo chính quyền giải quyết tốt đơn, thư khiếu nại, tố cáo, các đề xuất, kiến nghị chính đáng của nhân dân thì mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân sẽ được củng cố, tăng cường rõ rệt.

Năm là, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của Đảng.

Trước hết, phải lãnh đạo việc học tập, quán triệt các quan điểm lớn của Đảng về công tác dân vận, tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức và hành động trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của cả hệ thống chính trị, từ đó làm chuyển nhận thức của đội ngũ công chức, viên chức, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Các cấp ủy phải đổi mới cách nắm dân, vận động, tập hợp nhân dân, sâu sát cơ sở, sâu sát nhân dân, kịp thời dự báo tình hình tư tưởng, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng các giai tầng xã hội, nhất là tình hình công nhân, người lao động, thanh niên, trí thức, nông dân, phụ nữ, doanh nhân, người Việt Nam ở nước ngoài, tình hình tôn giáo, dân tộc..., để chủ động lãnh đạo, chỉ đạo. Thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với thực tiễn và đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà nước. Thực hiện tốt Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, Quy chế Dân chủ ở cơ sở. 

Quan tâm việc dựa vào dân để lựa chọn, giới thiệu những người xứng đáng, có kinh nghiệm, uy tín để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội bầu làm người đứng đầu của mình. Đồng thời chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác dân vận để nâng cao chất lượng tham mưu cho cấp ủy về công tác dân vận trong tình hình mới. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Đảng cần có cơ chế để nhân dân phát hiện, tiến cử người có đức, có tài cho Đảng. Tạo điều kiện tốt nhất để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội, để các đoàn thể, các tầng lớp nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

Sáu là, tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình và đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đất nước và bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập dân tộc, chủ động, tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế, đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả. Triển khai đồng bộ hoạt động đối ngoại cả về chính trị, an ninh, quốc phòng, văn hóa, xã hội, khai thác tối đa các cơ hội thuận lợi để mở rộng thị trường, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước.

Hiện nay nhân dân cả nước rất quan tâm đến việc bảo vệ chủ quyền đất nước, nhất là chủ quyền biển, đảo, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân đánh bắt, nuôi trồng thủy sản và vận tải hàng hóa. Chủ động hội nhập quốc tế có hiệu quả gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền đất nước là góp phần quan trọng củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng. 

Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân bất luận thời kỳ nào cũng luôn được coi là mối quan hệ “mật thiết”, “cá nước”, “máu thịt”, “sống còn”. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế hiện nay, mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân sẽ được tăng cường, củng cố vững chắc khi Đảng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội thực hiện đồng bộ, có hiệu quả nhiều giải pháp về xây dựng Đảng, về kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh, đối ngoại./.

--------------------------------------------

(1) Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2015, tr. 169

Nguyễn Thế Trung

Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Dân vận Trung ương

Nguồn: tapchicongsan.org.vn, ngày 03/01/2017

Gửi cho bạn bè

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Xem nhiều nhất