Qua
quá trình thực hiện, cấp trên lại phải kiểm tra, đôn đốc để xem xét
chủ trương công tác được triển khai vào thực tế như thế nào; xác định
nhân tố mới xuất hiện để nhân rộng; tháo gỡ khó khăn cho cấp dưới, điều
chỉnh lại chủ trương, biện pháp sao cho sát hợp hơn; tiến hành việc sơ
kết, tổng kết chủ trương đã đề ra.
Giúp
cho cấp ủy, Ban Chấp hành đoàn thể tiến hành hướng dẫn, kiểm tra chủ
trương công tác có các ban công tác chuyên môn, hoặc có cán bộ mà cấp
ủy, Ban Chấp hành phân công theo dõi chuyên đề sâu.
1. Hướng dẫn triển khai chủ trương công tác dân vận
a) Thời điểm phải hướng dẫn chủ trương công tác
Tổ chức cấp trên (cấp ủy, Ban Chấp hành đoàn thể) tiến hành hướng dẫn cấp dưới khi:
-
Có quyết định quan trọng (nghị quyết, chỉ thị...) của cấp ủy, Ban
Chấp hành cấp trên cần triển khai rộng rãi ở địa phương, cơ sở.
-
Chương trình công tác, chủ trương chỉ đạo hoặc triển khai phong trào
thi đua của quần chúng liên quan đến nhiều cơ sở, nhiều địa bàn.
b) Tiến hành việc hướng dẫn
Trong
các nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ của
một cấp bộ giao cho các cơ quan giúp việc phải hướng dẫn thực hiện. Do
đó, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức tiến hành hướng dẫn đã được xác
định.
Căn cứ để hướng dẫn là
các văn bản gốc (nghị quyết, chỉ thị) đã định ra chủ trương, nay cần
được cụ thể hóa để có thể thực hiện đồng bộ, thống nhất.
Xây dựng văn bản hướng dẫn là sự cụ thể hóa các chủ trương tiến hành; đề ra yêu cầu, nội dung, biện pháp, thời gian thực hiện… cơ cấu của văn bản hướng dẫn có thể bao gồm:
- Đặt vấn đề, gồm: căn cứ yêu cầu, lý do, phạm vi thực hiện văn bản hướng dẫn.
- Nội dung cụ thể việc triển khai chủ trương: công
việc và chỉ tiêu phải thực hiện (học tập, phổ biến, hoạt động, tổ
chức thi đua, vay vốn, chuyển giao kỹ thuật, tương trợ nhau, chọn điểm,
nhân rộng điển hình, v.v..).
- Tổ chức thực hiện: nêu
được sự phân công triển khai, theo dõi; việc kiểm tra, thời điểm rút
kinh nghiệm, biện pháp động viên đơn vị làm tốt khẩu hiệu và danh hiệu
thi đua, v.v..
- Mở hội nghị triển khai hướng dẫn: với
các chủ trương quan trọng của cấp ủy, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ
thường triển khai hướng dẫn thực hiện thông qua hội nghị do cấp ủy,
Ban Thường vụ chủ trì. Một chủ trương đã được triển khai thì chỉ gửi văn
bản hướng dẫn cho cấp dưới thực hiện.
2. Kiểm tra thực hiện chủ trương công tác dân vận
Kiểm
tra thực hiện chủ trương là một khâu công tác giúp cho các cấp ủy,
Ban Chấp hành, Ban Thường vụ của một cấp đi vào thực tế để xem tổ chức
của mình đã hoạt động như thế nào. Qua đó hiểu rõ hơn khó khăn, thuận
lợi, nhân tố mới và những tồn tại phải khắc phục để hoạt động đạt
hiệu quả tốt hơn; nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ. Công tác kiểm
tra bao gồm các việc sau:
a) Chủ trương tiến hành kiểm tra
Thuộc thẩm quyền và được bàn bạc quyết định của tập thể Ban Chấp hành, Ban Thường vụ của một cấp theo Điều lệ của Đảng, đoàn thể đã ghi.
Khi
quyết định việc kiểm tra, cơ quan ra quyết định phải chỉ rõ: kiểm tra
gì, thời gian, ai được phân công phụ trách việc kiểm tra.
b) Lập đoàn kiểm tra
Do
tính chất cụ thể của từng vụ việc phải kiểm tra mà việc lập đoàn kiểm
tra thể hiện rõ tư tưởng chỉ đạo, phạm vi, trách nhiệm của từng đoàn
kiểm tra.
-
Đoàn kiểm tra của cấp ủy, Ban Chấp hành (của một cấp bộ) do một đồng
chí chủ chốt của Ban Thường vụ chịu trách nhiệm; đồng thời chỉ định
thêm các thành viên thuộc các cơ quan chức năng có thể thực hiện tốt
công việc kiểm tra.
-
Đoàn kiểm tra của cơ quan chức năng (Ủy ban Kiểm tra, Ban Thanh tra)
là tổ chức được đại hội hoặc các Ban Chấp hành bầu hoặc cử ra; tiến
hành kiểm tra theo chương trình công tác hoặc kiểm tra khi có dấu hiệu
vi phạm quy định của tổ chức.
Tất
cả chủ trương, kế hoạch tổ chức kiểm tra được thông báo cho cơ quan,
tổ chức được kiểm ra để có sự chuẩn bị, làm tốt công việc trên.
c) Tiến hành kiểm tra
Theo kế hoạch, việc kiểm tra được tiến hành tại địa điểm thực tế. Công việc gồm:
- Nghe báo cáo đã được chuẩn bị theo yêu cầu;
- Nghiên cứu tài liệu liên quan;
- Làm việc riêng với từng cá nhân, đơn vị có trách nhiệm;
- Họp đoàn kiểm tra nhận xét sơ bộ;
- Trao đổi lại với lãnh đạo đơn vị được kiểm tra;
- Ra văn bản kết luận cuộc kiểm tra, việc phải xử lý;
- Gửi báo cáo tới các cơ quan có liên quan, nêu rõ kiến nghị và việc phải giải quyết qua cuộc kiểm tra.
d) Xử lý kết quả kiểm tra
Cơ
quan ra quyết định kiểm tra phải nghe báo cáo kết quả việc kiểm tra,
rồi nhận định và kết luận cuộc kiểm tra; làm rõ những việc làm chưa
đúng, mức độ sai sót, khuyết điểm của đơn vị, tổ chức được kiểm tra.
Qua
kiểm tra một hoặc một số đơn vị, cấp ủy, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ
xem xét rút kinh nghiệm và có thể ra thông báo rộng hơn về những bài
học qua đợt kiểm tra được tiến hành; nhằm giúp cho nhiều đơn vị điều
chỉnh các chủ trương, biện pháp chỉ đạo ngày càng sát hợp hơn. Đúng
như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đảng phải luôn luôn xét lại những
nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy
thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại
đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”.