Đối với đồng bào Khmer, sư sãi không chỉ có vai trò trong đời sống tâm linh tôn giáo mà còn có vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống xã hội của người Khmer. Người Khmer từ khi sinh ra được cầu an cho đến khi chết được hoả thiêu và nhập cốt vào tháp đều có sự tham gia của các nhà sư. Theo quan niệm của người Khmer theo Phật giáo Nam tông, nhà sư là người đại diện cho đức Phật để chứng giám những hành động, lòng thành kính của tín đồ, họ còn là cầu nối giữa tín đồ tới đức Phật. Người được chấp nhận làm sư sãi trong chùa phải thực hiện nhiều điều nghiêm túc, khắt khe; phải học thuộc những quy định đối với sư sãi trước khi vào chùa; phải tập ăn mặc, đi đứng theo phong cách nhà sư, phải có thầy tế độ, có sự đồng ý của cha mẹ, vợ hoặc người đỡ đầu nuôi dưỡng (nếu có vợ hoặc người nuôi dưỡng). Yêu cầu cao và đòi hỏi nghiêm khắc đối với các vị sư thực hiện đúng giới luật đã tạo ra cho giới tu hành nếp sống chuẩn mực, có đạo hạnh… nên sư sãi luôn được cộng đồng tôn trọng.
Mỗi chùa Khmer ở Nam bộ có khoảng từ 10 đến 15 vị sư sãi tu hành, có chùa số sư sãi lên tới hàng chục vị. Phật giáo Nam tông Khmer Nam bộ không có phụ nữ tu tại chùa. Đứng đầu các vị sư trong chùa là Luk Krou (Sãi cả), là người có nhiều năm tu hành, hiểu biết kinh Phật, có đức độ, uy tín. Sãi cả có trách nhiệm điều hành các hoạt động tôn giáo và xã hội của nhà chùa. Ban quản trị chùa lo các nguồn kinh phí để xây dựng, duy trì các hoạt động của nhà chùa. Người Khmer Nam bộ tin rằng, việc đóng góp, hiến tặng của cải, công đức cho nhà chùa là một cách tích lũy công đức cho mai sau khi được trở về với đức Phật ở chốn niết bàn.
Hiện toàn vùng Tây Nam bộ có khoảng gần 10 nghìn sư sãi đang tu tập tại 453 ngôi chùa. Trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, được sự giác ngộ của Đảng, đồng bào Khmer đã “một lòng, một dạ” theo Đảng, tham gia các phong trào đấu tranh chính trị, binh vận, đấu tranh vũ trang. Trong các phong trào đấu tranh cách mạng sôi sục của đồng bào Khmer, đã có nhiều sư sãi “cởi áo cà sa, khoác áo chiến bào” trở thành những cán bộ cách mạng, tích cực tuyên truyền, vận động thu hút đông đảo đồng bào Khmer tham gia phong trào đấu tranh sôi nổi, rộng khắp và liên tục; nhiều sư sãi đã giữ cương vị cao trong Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam như: Hoà thượng Sơn Vọng - Phó Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới; Phó Chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam, cố vấn Mặt trận Dân tộc giải phóng khu Tây Nam bộ. Hoà thượng Hữu Nhem - Phó Chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam, Phó Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới; Hòa thượng Thạch Sơn, Hội trưởng Hội đồng sư sãi yêu nước khu vực Tây Nam Bộ; Hòa thượng Lui Sa Rat, Chủ tịch Mặt trận Giải phóng tỉnh Trà Vinh… đã có nhiều sư sãi hy sinh anh dũng như Đại đức Sơn Vọng, Đại đức Thạch Xom, Đại đức Sơn Thal ở chùa Prây Chóp... đã có nhiều ngôi chùa cổ kính như chùa Dìa Chuối, Chùa Tân Hiệp (tỉnh Cà Mau); chùa Kinh Hải, chùa Sóc Diện (huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang), chùa Prây-chóp, chùa Tà Teo, chùa Bàng Thua (huyện Vĩnh Châu, tỉnh Hậu Giang)… đã trở thành các “Chùa Mặt trận” là nơi cất giấu tài liệu, nuôi giấu cán bộ.
Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã có nhiều cuộc đấu tranh chính trị, binh vận do các vị sư sãi tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng đã được đông đảo đồng bào tích cực tham gia như: Cuộc đấu tranh của khoảng 200 sư sãi Khmer ở Rạch Sỏi - Kiên Giang (năm 1974) đã kéo dài trong 3 tháng; cuộc đấu tranh của sư sãi ở Trà Cú - Sóc Trăng (năm 1966 - 1967) với hàng trăm sư sãi và trên 40 ngàn đồng bào tham gia. Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, các cuộc đấu tranh chống đôn quân, bắt lính của sư sãi Khmer ở Hậu Giang đã kéo dài trong 2 năm 1969 -1970. Riêng cuộc đấu tranh vào cuối năm 1969 đã có 5 ngàn sư sãi thuộc tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu tham gia; chỉ riêng ở Vĩnh Châu đã huy động được 1.200 sư sãi tham gia đấu tranh. Đặc biệt là cuộc đấu tranh của sư sãi chùa Bà Beo vào ngày 22/5/1970, trong khi tổ chức Lễ kỷ niệm sinh nhật lần thứ 80 của Bác Hồ với sự tham dự của hơn 40 sư sãi và 300 đồng bào Khmer, mặc dù bị địch khủng bố, đàn áp nhưng lễ kỷ niệm vẫn kéo dài hơn 3 ngày đêm và đã có nhiều tấm gương anh dũng đấu tranh của sư sãi yêu nước, nhiều sư sãi bị bắt bớ, tra tấn, nhưng không khuất phục trước kẻ thù*. Những thành tích trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của sư sãi Khmer yêu nước đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận, tặng thưởng hai Huân chương Giải phóng hạng Nhất dành cho giới Phật giáo Nam tông Khmer vùng Tây Nam bộ.
Từ ngày đất nước thống nhất đến nay, Đảng, Nhà nước đã thực hiện nhiều chủ trương, chính sách để phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào Khmer tại các tỉnh vùng Tây Nam Bộ; đã ghi nhận công lao của nhiều sư sãi, nhiều ngôi chùa Khmer đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng. Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước, trong nhiều năm qua các vị sư sãi Khmer cùng với việc tu hành tôn giáo đã tích cực tham gia tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến tín đồ, phật tử và bà con Khmer ở địa phương; tích cực tham gia thực hiện cuộc vận động xây dựng đời sống văn hoá ở địa bàn dân cư, phòng chống tệ nạn xã hội, đảm bảo an ninh trật tự ở địa phương. Nhiều sư sãi Khmer đã tham gia động viên con em ở địa phương thực hiện tốt nghĩa vụ quân sự, tham gia các hoạt động từ thiện, xoá đói giảm nghèo. Hầu hết các trường học trong chùa Khmer được các sư sãi dạy miễn phí và cấp sách vở, bút viết cho con em các gia đình Khmer nghèo đói, khó khăn. Nhà chùa đã giúp các em biết đọc, biết viết, biết làm tính... Một số chùa Khmer có vườn thuốc nam và một số nhà sư Khmer có kiến thức về y học dân tộc đã giúp đỡ rất nhiều cho việc khám chữa bệnh của bà con Khmer và các dân tộc khác trong vùng. Các sư sãi cũng giúp bà con những kiến thức về y tế như uống nước sôi, giữ vệ sinh ăn uống, ngủ màn chống muỗi sốt rét... Những hoạt động xã hội của sư sãi Khmer đã góp phần tích cực giúp chính quyền cơ sở trong việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo và các chính sách xã hội của Nhà nước ở địa phương. Tiêu biểu như: Hòa thượng Đào Như (TP. Cần Thơ); Hòa thượng Tăng Nô (tỉnh Sóc Trăng); Hòa thượng Thạch Sok Xane (tỉnh Trà Vinh); Hoà thượng Danh Đổng (tỉnh Kiên Giang); Hòa thượng Danh Thiệp (tỉnh An Giang); Hòa thượng Lý Sa Muoth (tỉnh Bạc Liêu); Đại đức Hữu Trung (tỉnh Cà Mau) và nhiều tấm gương sư sãi tiêu biểu khác đã thực hiện theo tôn chỉ của Đức Phật “Duy tuệ thị nghiệp”, dùng trí tuệ làm sự nghiệp để thức tỉnh chính mình và thức tỉnh chúng sinh, cùng mưu cầu hạnh phúc cho mọi người “sống tốt đời, đẹp đạo”, thực hiện tốt phương châm “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội” gắn bó mật thiết với Tổ quốc và dân tộc, cùng nhau xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội - một cõi niết bàn ở trần thế trên “Đất Mẹ Việt Nam”. Nhiều sư sãi Khmer tiêu biểu đã được bầu cử tham gia Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam; tham gia đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp như: Hoà thượng Maha Thach Sêrây; Hòa thượng Thạch Som đồng Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Hoà thượng Danh Nhưỡng, Hoà thượng Dương Nhơn vừa là đại biểu Quốc hội vừa là Uỷ viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong nhiều nhiệm kỳ Mặt trận...
Để tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của sư sãi Khmer trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc “làm nòng cốt” trong công tác tuyên truyền, vận động đồng bào Khmer, hệ thống chính trị các cấp từ Trung ương đến cơ sở cần tiếp tục thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, cụ thể như:
1. Tiếp tục phối hợp tạo điều kiện giúp đỡ để củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức về mặt giáo quyền của Phật giáo Nam tông cấp khu vực trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Hội Đoàn kết sư sãi Khmer yêu nước các tỉnh Tây Nam Bộ; xây dựng, bồi dưỡng, phát huy vai trò của các vị chức sắc tiêu biểu phụ trách về giáo quyền và Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tích cực tham gia các hoạt động của Hội, tham gia quản lý điều hành các chùa và các sinh hoạt, học hành của sư sãi, các hoạt động lễ hội của đồng bào Khmer theo phong tục, tập quán truyền thống.
2. Cần có chiến lược lâu dài phối hợp với Giáo hội Phật giáo Việt Nam để xây dựng đội ngũ sư sãi Khmer vừa tinh thông đạo pháp, có uy tín với người đồng đạo, song lại vừa có thái độ chính trị tốt. Việc đào tạo tăng tài phải chú ý kết hợp cả ba nội dung: tiếng Pali, Phật học và học vấn (văn hóa). Cần duy trì cả ba cấp đào tạo: cấp cơ sở (theo chùa), bậc trung cấp theo đơn vị tỉnh và bậc cao cấp cho toàn khối Phật giáo Nam tông của người Khmer. Đối với bậc cao cấp, phải tăng cường đào tạo tại Học viện Phật giáo Nam tông tại thành phố Cần Thơ. Đồng thời có kế hoạch cử Sư sãi đi học ở một số nước có Phật giáo Nam tông như Myanmar, Sri Lanka, Ấn Độ… Trước mắt, cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ Phật học, văn hoá và tiếng Pali cho đội ngũ sư sãi hiện có của Phật giáo Nam tông Khmer.
3. Tạo điều kiện giúp đỡ Phật giáo Nam tông có đủ kinh sách phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, xoá bỏ sự phụ thuộc vào kinh sách ở nước ngoài. Đối với Phật giáo Nam tông do một thời gian dài chưa có sự quan tâm hỗ trợ in ấn, xuất bản nên hiện nay kinh bổn của Phật giáo Nam tông còn thiếu, số kinh sách còn lại chủ yếu được ghi trên lá Bối, đến nay hầu hết đã mục nát, không sử dụng được nên đã xảy ra tình trạng in lậu kinh sách từ nước ngoài chuyển vào trong nước mà các ngành chức năng khó kiểm soát được nội dung. Do vậy, Nhà nước cần quan tâm hỗ trợ cho việc xuất bản kinh sách phục vụ hoạt động tôn giáo cho người Khmer ở Nam Bộ; không để các thế lực cực đoan, thù địch bên ngoài lợi dụng, gây chia rẽ đoàn kết.
4. Mặt trận và các tổ chức đoàn thể các cấp cần chú trọng xây dựng, bồi dưỡng phát huy vai trò của sư sãi trong công tác tuyên truyền, vận động, phối hợp với chính quyền tạo điều kiện xây dựng các ngôi chùa thành các điểm sinh hoạt văn hóa, trang bị tủ sách, ti vi, đài, hệ thống phát thanh phục vụ nhu cầu về đời sống tinh thần của đồng bào cũng như tuyên truyền các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và các phong trào thi đua yêu nước ở các địa phương.