Thứ Năm, 28/11/2024
Tiếp tục đẩy mạnh công tác vận động, hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài gắn kết với quê hương, hướng về Tổ quốc

Công tác đối với NVNONN là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị; đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong việc xây dựng cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ người Việt Nam hội nhập vào cuộc sống của nước sở tại; bảo vệ quyền lợi chính đáng, động viên kiều bào đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, gắn bó, đóng góp cho quê hương, đất nước. Theo đó, công tác vận động đối với NVNONN luôn là vấn đề được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện và xuyên suốt và được xác định là nhiệm vụ quan trọng trong công tác dân vận của Đảng.


Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng với các kiều bào về dự
Chương trình Xuân quê hương năm 2019


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011), trong những định hướng lớn về phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại đã bổ sung nội dung về vấn đề NVNONN: “Hỗ trợ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, giữ gìn bản sắc dân tộc, chấp hành tốt pháp luật nước sở tại, hướng về quê hương, tích cực góp phần xây dựng đất nước”. Hiến pháp năm 2013 có 4 điều (Điều 9, 17,18, 96) quy định những vấn đề liên quan, trong đó, dành riêng Điều 18 tại Chương “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” để tiếp tục khẳng định chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, Bộ Chính trị (khóa XI) đã ban hành Chỉ thị số 45-CT/TW nhằm lãnh đạo, thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác NVNONN với những yêu cầu đặt ra ngày càng cao, trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Sau 5 năm thực hiện Chỉ thị số 45-CT/TW, với chức năng, nhiệm vụ của mình, Ban Dân vận Trung ương tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Ban Cán sự Đảng Bộ Ngoại giao tổ chức nhiều chương trình để thúc đẩy công tác đối với NVNONN đã đạt được nhiều kết quả cụ thể. Nhận thức và hành động của các cấp, ngành đối với công tác vận động NVNONN chuyển biến tích cực hơn; các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị theo chức năng, nhiệm vụ đã phát huy trách nhiệm trong công tác vận động NVNONN. Thông qua đó, công tác dân vận nhà nước đã tập trung việc thể chế hóa các chủ trương, phương hướng và nhiệm vụ về công tác đối với NVNONN trong tình hình mới được triển khai tương đối toàn diện, kịp thời, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Năm 2014, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một điều của Luật Quốc tịch Việt Nam đã tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thủ tục đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam đối với người Việt Nam định cư nước ngoài. Trong đó có hai nội dung sửa đổi quan trọng là: (1) Bỏ quy định về thời hạn 5 năm (01/7/2009-01/7/2014) người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải làm thủ tục đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam tại khoản 2, Điều 13; (2) Bỏ quy định về căn cứ mất quốc tịch Việt Nam đối với trường hợp “không đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam tại khoản 3, Điều 26. Quốc hội, Chính phủ cũng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định nhiều chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng NVNONN đóng góp, gắn bó nhiều hơn với quê hương, đất nước như chính sách sở hữu nhà ở tại Việt Nam, chính sách thu hút đầu tư, chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao... Từ chỗ chỉ một số văn bản, chủ yếu văn bản dưới luật điều chỉnh một số chính sách cụ thể đối với NVNONN, đến nay đã có nhiều đạo luật liên quan đã được ban hành như Luật Quốc tịch, Luật Hộ tịch, Luật Nuôi con nuôi, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Đầu tư, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Thi đua, khen thưởng, Luật Giáo dục, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam... tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi để NVNONN có điều kiện gắn bó nhiều hơn với quê hương, đất nước.

Công tác dân vận nhà nước luôn gắn liền quản lý nhà nước được tăng cường mạnh mẽ hơn, qua việc hỗ trợ cộng đồng NVNONN ổn định cuộc sống, hội nhập vào nước sở tại, bảo vệ quyền lợi chính đáng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, gắn bó với quê hương, đất nước tiếp tục được quan tâm. Nội dung về công tác kiều bào đã được đưa vào nhiều hiệp định, thỏa thuận mà Việt Nam ký kết với các nước. Từ năm 2004 đến nay, nhất là sau khi Luật Tương trợ tư pháp 2007 được ban hành, Việt Nam đã đàm phán và ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với 27 nước; tập trung hỗ trợ các cộng đồng kiều bào gặp nhiều khó khăn khu vực Đông Nam Á, Đông Âu và châu Phi. Cộng đồng NVNONN ngày càng phát triển, ổn định, hội nhập thuận lợi vào xã hội sở tại, vị thế, uy tín ngày càng nâng cao với khoảng trên 5 triệu người sinh sống, làm ăn và học tập tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ… Trong đó, tháng 7/2013 cộng đồng người Việt Nam tại Cộng hòa Séc đã được công nhận là dân tộc thứ 14 ở nước sở tại. Công tác bảo hộ công dân ngày càng kịp thời, hiệu quả, thực chất hơn; đặc biệt, trong thời gian dịch bệnh Covid-19, với quyết tâm và sự chỉ đạo kịp thời của Đảng, Nhà nước, việc tổ chức được hàng trăm chuyến bay đưa hơn 120 ngàn công dân Việt Nam từ hơn 50 quốc gia, vùng lãnh thổ về nước an toàn cũng như việc triển khai kịp thời những biện pháp hỗ trợ phù hợp cho kiều bào ở nước ngoài gặp khó khăn và bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh được đông đảo công dân trong và ngoài nước đánh giá cao, củng cố niềm tự hào dân tộc, nâng cao niềm tin của cộng đồng kiều bào trên thế giới vào sự quan tâm của Đảng, Nhà nước.

Công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong cộng đồng NVNONN được triển khai dưới nhiều hình thức, ngày càng hiệu quả hơn. Chính sách khuyến khích, huy động nguồn lực trong kiều bào được tích cực triển khai. Một số cá nhân tiêu biểu NVNONN gắn bó với Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, Hội NVNONN trong nhiều năm, có ảnh hưởng tích cực trong cộng đồng NVNONN, phát huy được vai trò trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến cộng đồng. Những đóng góp trí tuệ của kiều bào qua nhiều hình thức, cơ chế phù hợp đã góp phần thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, ứng dụng công nghệ 4.0, phát triển khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đầu tư và phát triển... Hàng trăm dự án FDI của kiều bào ở nước ngoài đầu tư vào Việt Nam góp phần tạo việc làm, đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ, phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp cho ngân sách nhà nước. Lượng kiều hối tăng trưởng ổn định là một nguồn lực quan trọng thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh, giảm nghèo, nâng cao mức sống của một bộ phận người dân, góp phần bù đắp thâm hụt cán cân thương mại, tăng dự trữ ngoại hối của Nhà nước. Trong bối cảnh của đại dịch COVID-19, NVNONN cũng đã tham gia vào nhiều hoạt động “ngoại giao vắc-xin”, hỗ trợ kịp thời và hiệu quả nhiều thiết bị y tế và thuốc điều trị đóng góp vào phòng chống, thích ứng an toàn với COVID-19, phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.

Chủ trương đổi mới, đa dạng hóa, nâng cao hiệu quả các phương thức vận động, các hình thức tập hợp đoàn kết NVNONN, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau, khuyến khích những hoạt động hướng về Tổ quốc được các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị triển khai tích cực với nhiều sáng kiến, quy tụ sự quan tâm của đông đảo cộng đồng NVNONN. Gần đây, NVNONN thế hệ thứ ba trở về làm ăn, tham gia các hoạt động gắn bó với quê hương, đất nước có xu hướng tăng. Mạng lưới kiều bào trẻ quy tụ được hàng trăm thanh niên đang sinh sống và làm việc ở Việt Nam. Chương trình kết nối Mạng lưới đổi mới sáng tạo với khoảng 100 nhà khoa học NVNONN hàng đầu trong các lĩnh vực. Diễn đàn người Việt Nam có ảnh hưởng toàn cầu được tổ chức tại Pháp tháng 3/2019 thu hút sự tham gia của gần 300 đại biểu, trong đó hơn 200 đại biểu là những người Việt Nam thành đạt, có ảnh hưởng trong các lĩnh vực khác nhau như kinh tế, khoa học, nghệ thuật... đến từ hàng chục quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Các hoạt động về nguồn như Chương trình “Xuân quê hương”, Trại hè dành cho thanh niên, sinh viên kiều bào, Lễ Giỗ tổ Hùng Vương….. được duy trì hàng năm, đặc biệt là việc đưa đại diện kiều bào đi thăm đảo và quân dân Trường Sa ngày càng gắn kết, củng cố niềm tin của cộng đồng kiều bào về tinh thần yêu nước, về sự phát triển của đất nước. Các tổ chức hội, đoàn NVNONN tiếp tục được củng cố, mở rộng, tăng cường hoạt động bằng nhiều hình thức phong phú, đóng vai trò quan trọng trong đoàn kết cộng đồng, giữ gìn và quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc, là cầu nối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và các nước sở tại… Đạt được các kết quả quan trọng nói trên dựa vào nền tảng lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới của Đảng, nỗ lực của Nhà nước, sự tham gia tích cực của hệ thống chính trị. Các cơ quan, tổ chức, trong đó có vai trò quan trọng của Ban Cán sự đảng Bộ Ngoại giao, các ban, bộ, ngành, địa phương, Ủy ban nhà nước về NVNONN, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đã tăng cường phối hợp triển khai các văn bản của Đảng, đồng thời trực tiếp tổ chức thực hiện mạnh mẽ, đồng bộ nhiều nội dung trong Nghị quyết số 36-NQ/TW, Chỉ thị số 45-CT/TW theo chức năng, nhiệm vụ được phân công, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.

Tuy nhiên, công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài vẫn còn một số vấn đề cần quan tâm; có những hạn chế, bất cập là do nhận thức còn khác nhau, có những vấn đề chưa được tập trung giải quyết, cũng có vấn đề do điều kiện nguồn lực còn hạn hẹp... Những nguyện vọng chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài mới chỉ được giải quyết một phần, việc thu hút chất xám, nguồn lực, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc chưa thật đáp ứng được yêu cầu đề ra. Nhiều chính sách về đầu tư, về nhà đất, về cơ chế thu hút - sử dụng – đãi ngộ chuyên gia, trí thức là NVNONN ngày càng được cụ thể hóa và thông thoáng hơn nhưng trên thực tế, các chính sách chưa đủ mạnh; thủ tục hành chính còn phức tạp, chồng chéo, một số quy định còn thiếu linh hoạt, ảnh hưởng tới việc thu hút nguồn lực từ cộng đồng NVNONN; điều kiện để các chuyên gia được hưởng chính sách đãi ngộ còn bất cập; chủ yếu dành cho các chuyên gia đã thành danh, chưa quan tâm nhiều đến các chuyên gia trẻ tuổi, chưa tương xứng với năng lực; chính sách ưu đãi còn chưa rõ ràng, chỉ mới trọng đãi, chưa chú ý trọng dụng. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị cho nghiên cứu khoa học và môi trường học thuật chuyên nghiệp còn hạn chế. Nhiều kiều bào còn thiếu thông tin đầy đủ về tình hình đầu tư, thị trường, các ngành nghề trọng điểm cần vốn đầu tư cũng như chính sách ưu đãi trong đầu tư các lĩnh vực sản xuất quan trọng, để tiếp cận thông tin, nhiều doanh nghiệp kiều bào phải thông qua trung gian, gây tốn kém chi phí.

 
Lớp học Tiếng Việt ở Ekaterinburg, Nga. 

Giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước, trên cơ sở triển khai đường lối đối ngoại theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Kết luận số 12 của Bộ Chính trị (khóa XIII) về công tác NVNONN trong tình hình mới, đòi hỏi tiếp tục có sự đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp công tác vận động NVNONN, gắn tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, phát huy vai trò và sự tham gia của cả hệ thống chính trị. Theo đó, cần quan tâm tổ chức thực hiện hiệu quả một số nội dung sau:

1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng và những nhiệm vụ trọng tâm của công tác vận động NVNONN trong Cương lĩnh sửa đổi, bổ sung năm 2011, Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX, Chỉ thị 45-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI, Kết luận 12-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XIII. Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên và nhân dân để thực hiện tốt tinh thần “Công tác đối với NVNONN là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và của nhân dân”.

2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng về công tác NVNONN; làm tốt công tác thông tin tình hình trong nước, giúp kiều bào nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc, hướng về quê hương, đất nước, có đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

3. Tổ chức thực hiện có hiệu quả những chính sách liên quan đến NVNONN, nhất là những chính sách mới, tạo thuận lợi cho NVNONN được ban hành trong các văn bản pháp luật gần đây như Luật Đầu tư 2020, Luật Giáo dục 2019, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam 2019, Nghị định 16/2020/ND-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam, Nghị định 27/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung chính sách về thu hút cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ là NVNONN và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam...

4. Phối hợp kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật, cải cách thủ tục hành chính tạo điều kiện thu hút kiều bào gắn bó với quê hương, đất nước; thể chế hóa các quan điểm của Đảng liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài như các vấn đề: quốc tịch, nhà ở, cư trú, xuất nhập cảnh, đầu tư, kinh doanh, thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo,... Trong bối cảnh toàn cầu hóa với khái niệm “công dân toàn cầu” và xu hướng nới lỏng chính sách quốc tịch, cần tích cực phối hợp nghiên cứu để có chính sách quốc tịch phù hợp với tình hình mới, đáp ứng mong muốn, nguyện vọng có hoặc giữ quốc tịch Việt Nam của NVNONN, phát huy thế mạnh từ cộng đồng kiều bào.

5. Phối hợp triển khai đồng bộ, sáng tạo, đa dạng hóa hình thức tập hợp, vận động người Việt Nam ở nước ngoài để tăng cường tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái trong cộng đồng, tình cảm gắn bó với quê hương, đất nước; chú trọng đến thế hệ trẻ, các cá nhân có uy tín trong cộng đồng. Phát huy vai trò cầu nối tích cực của các cá nhân tiêu biểu là NVNONN tham gia trong Mặt trận Tổ quốc, các mạng lưới, diễn đàn...  Các đoàn thể nhân dân trong nước gắn kết phong trào, hoạt động của hội đoàn NVNONN với phong trào, hoạt động của các đoàn thể, tổ chức nhân dân ở trong nước. Nghiên cứu, xúc tiến việc vận động thành lập một số hội đoàn của NVNONN bên cạnh cơ quan đại diện tại một số địa bàn lớn có đông NVNONN sinh sống, lao động, học tập; phối hợp kiến nghị nghiên cứu việc bố trí kinh phí công tác cộng đồng thông qua Bộ Ngoại giao để thực hiện nhiệm vụ chính trị xây dựng các tổ chức hội đoàn làm đại diện cầu nối giữa kiều bào với Đảng, Nhà nước.

6. Tiếp tục đẩy mạnh cơ chế phối hợp liên ngành trong các hoạt động hỗ trợ NVNONN giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc; tăng cường hỗ trợ hoạt động dạy và học tiếng Việt, khắc phục những khó khăn, bất cập trong công tác này như: phụ trách các lớp học và dạy tiếng Việt là giáo viên không chuyên, có nhiệt huyết nhưng thiếu nghiệp vụ sư phạm, thiếu tài liệu, giáo trình phù hợp với từng địa bàn...

7. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực, đề cao vai trò, trách nhiệm của từng cán bộ phụ trách công tác người Việt Nam ở nước ngoài, của từng cán bộ làm công tác đối ngoại và ngoại giao ở các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.

8. Triển khai toàn diện, mạnh mẽ hơn công tác đối với NVNONN để tạo sự gắn kết chặt chẽ, phát huy tối đa các nguồn lực, sức mạnh tổng hợp cho phát triển đất nước, “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ”, “tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, phát huy vai trò cầu nối tích cực của cộng đồng NVNONN trong qua hệ đối ngoại giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước.

Nguyễn Phước Lộc

UVBTV, Trưởng Ban Tổ chức Thành ủy TP. Hồ Chí Minh

Nguyên Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương

Gửi cho bạn bè

Xem nhiều nhất