Thứ Sáu, 17/5/2024
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng
Cử tri dân tộc thiểu số đi bỏ phiếu bầu Quốc hội khóa XIII và HĐND các cấp (Ảnh: cand.com.vn)

Quan điểm về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới, quyết tâm biến nó thành hiện thực. Đại hội XI của Đảng đã khẳng định mục tiêu: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ...”. Trong đó có hai điểm mới quan trọng được bổ sung và phát triển so với Nghị quyết Đại hội X của Đảng: Một là, đưa cụm từ dân chủ lên trước cụm từ công bằng, văn minh. Điều đó cho thấy Đảng ta đã xác định rõ vị trí của dân chủ và thực hành dân chủ trong quá trình phát triển xã hội. Để có xã hội dân giàu, nước mạnh, trước hết phải bảo đảm trong xã hội có nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và phải thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa một cách thực chất, vì đó là điều kiện tiên quyết, là cơ sở thiết yếu để xây dựng xã hội công bằng, văn minh. Hai là, khẳng định đặc trưng quan trọng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là xã hội do nhân dân làm chủ, thể hiện rõ bản chất của chế độ xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Trong văn kiện Đại hội XII, sự nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa của việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được thể hiện ở chỗ, Đảng ta bổ sung thêm cụm từ “dân chủ xã hội chủ nghĩa” vào tiêu đề Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội XII của Đảng.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa còn là động lực của sự phát triển đất nước, là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; bởi lẽ, khi nhân dân đã nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ và thực sự phát huy quyền dân chủ thì đó sẽ là nguồn sức mạnh to lớn cho sự phát triển đất nước. Mở rộng dân chủ là một trong những quan điểm phát triển được Đảng ta nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020(1) ; còn trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020, quan điểm phát triển được Đảng ta nhấn mạnh với yêu cầu cao hơn: “Phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ của người dân trong hoàn thiện và thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân”(2).

Trong tư duy lý luận của Đảng ta, vấn đề không dừng lại ở quan niệm về dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà điều quan trọng hơn là tiếp tục thực hành, phát huy dân chủ, nghĩa là phải tạo được bước chuyển căn bản từ nhận thức đến hành động. Để đạt được mục tiêu xây dựng xã hội thực sự dân chủ, Đại hội XII xác định rõ: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”(3). Phương thức, cơ chế thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, mà trọng tâm là “thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, như văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra. Dưới nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân là chủ thể của quyền lực, là người thực hiện quyền lực; đa số nhân dân lao động có quyền và được bảo đảm các điều kiện cần thiết để tham gia các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Trong việc thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phải bảo đảm cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc tổ chức, lập ra bộ máy nhà nước, vào việc quản lý các công việc của Nhà nước, quyết định các công việc trọng đại của đất nước; đồng thời, có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức và cá nhân khác được trao những quyền hạn nhất định để quản lý một số công việc của Nhà nước. Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người.

Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa Nhà nước với nhân dân, trong đó, trước hết là Nhà nước bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Hơn nữa, Nhà nước có cơ chế và các biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; đồng thời, “Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân”(4).

Đánh giá về thực hành, phát huy dân chủ trong những năm qua

Đảng đánh giá trên cả hai phương diện thành tựu và hạn chế, khuyết điểm.

Về thành tựu thực hành, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đại hội XII của Đảng nhận định: qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy. Cụ thể như sau:

- Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và việc bảo đảm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay không chỉ được khẳng định trong chủ trương, đường lối của Đảng mà còn được thể chế hóa và bảo đảm thực hiện thông qua Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà nước. Trên phương diện xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về thực hiện dân chủ, Đại hội XII đánh giá: “Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi. Khẳng định rõ các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội”(5). Minh chứng sống động cho đánh giá trên của Đảng là những nguyên tắc hiến định về thực hành, phát huy dân chủ được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, như: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân...” (Điều 2); “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3)... Quyền dân chủ của nhân dân còn được ghi nhận tại Chương II Hiến pháp năm 2013 (quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) cũng như trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.

- Từ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hành, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đến việc hiện thực hóa chúng trong thực tế xã hội phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của nhân dân về các quyền dân chủ của mình. Chẳng hạn, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định và bảo đảm cho nhân dân thực hiện quyền được biết các nội dung liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội của mình ở cơ sở, quyền được bàn và quyết định, quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và quyền được giám sát. Trong những năm qua, nhân dân ở cơ sở đã thực hiện, phát huy tốt các quyền đó, bởi họ có nhận thức khá đầy đủ về những quyền dân chủ. Đó cũng là cơ sở thực tiễn để Đảng ta nhận định: “Ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân, ý thức về dân chủ trong xã hội được nâng lên. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có tiến bộ”(6).

- Việc thực hành dân chủ đã và đang tạo động lực thúc đẩy, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát các hoạt động của Nhà nước nói chung, của các cấp chính quyền nói riêng; khắc phục tệ nạn quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, xa rời quần chúng nhân dân của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước; đóng góp tích cực vào việc cải cách hành chính; góp phần xây dựng bộ máy chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; đóng góp tích cực vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. Đại hội XII của Đảng đánh giá: Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã lắng nghe, tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến khác nhau.

Bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, Đại hội XII của Đảng cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong thực hành, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm qua: Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi. “Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”(7).

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém nêu trên là do, ở một số nơi, các cấp ủy, chính quyền còn xem nhẹ vai trò của việc thực hành dân chủ nên công tác lãnh đạo chưa sâu sát, sự chỉ đạo còn mang tính hình thức, đối phó; đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức chưa nhận thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình trong việc triển khai các biện pháp thực hiện dân chủ nên chưa tận lực, tận tâm; người dân thiếu hiểu biết về các quyền dân chủ, cơ chế thực hiện dân chủ nên chưa chủ động, tích cực tham gia quá trình này. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên do nhiều nguyên nhân: Hệ thống pháp luật, cơ chế, quy chế, tổ chức và các điều kiện để thực thi dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân còn thiếu và chưa đồng bộ. Không ít cấp ủy đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa là tấm gương về phát huy dân chủ trong xã hội.

Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa

Về phương hướng.

Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”(8). Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta hướng tới xây dựng và hoàn thiện là nền dân chủ rộng rãi, mang tính toàn diện, được thực hiện thông qua hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, trước hết là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, thu hút nhân dân lao động tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội nhằm phục vụ cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động và bảo đảm quyền làm chủ của họ cả về mặt pháp lý cũng như trên thực tế. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là phương hướng, cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, vì Nhà nước đó sẽ bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Về các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể.

Nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong những năm tới, Đại hội XII của Đảng xác định:

Thứ nhất, “Thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện”(9). Dân chủ trực tiếp là hình thức mọi công dân trực tiếp thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình một cách bình đẳng, không phân biệt giới tính, lứa tuổi, thành phần xuất thân, địa vị xã hội... Đây là hình thức hữu hiệu tạo cho nhân dân, với tính cách là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước, khả năng tham gia một cách tích cực và chủ động vào các hoạt động của Nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Theo quy định của Hiến pháp hiện hành, hình thức dân chủ trực tiếp được thực hiện bằng các phương thức: chế độ bầu, bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân; chế độ gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri của đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân; quyền công dân tham gia thảo luận các vấn đề chung, quan trọng của đất nước và của địa phương; biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. Dân chủ đại diện là hình thức nhân dân thực hiện quyền dân chủ thông qua các cơ quan đại diện của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội - tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, đại diện cho nhân dân. Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện đều là hình thức của chế độ dân chủ, có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Đại hội XII của Đảng khẳng định: Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa phải luôn đặt trong mối liên hệ và gắn liền với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội.

Thứ hai, “Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”(10). Muốn để “dân biết”, điều cốt yếu đầu tiên là phải cung cấp thông tin cho nhân dân; việc cung cấp thông tin phải chân thực, kịp thời và công khai. Có công khai thì mới có dân chủ, vì công khai là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hành dân chủ. Bản chất của Nhà nước ta là nhà nước dân chủ, nên công khai là một đòi hỏi tất yếu, khách quan, là một biểu hiện quan trọng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Dân bàn” là xu hướng tất yếu sau khi nhân dân đã được cung cấp thông tin đầy đủ, công khai. Với tinh thần “lấy dân làm gốc”, các cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp phải biết lắng nghe các ý kiến của quần chúng nhân dân, nắm bắt dư luận xã hội trong nhân dân một cách nghiêm túc, phân tích nội dung các ý kiến của nhân dân một cách khoa học để nắm bắt chính xác, kịp thời tâm trạng, tình cảm, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Muốn thực hiện tốt phương châm “dân bàn”, phải tạo các điều kiện thuận lợi (phương tiện, diễn đàn, cơ chế) để nhân dân có thể nói lên suy nghĩ thật của mình, được bày tỏ quan điểm, chính kiến về những vấn đề mà mình đang quan tâm, vì lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ và vì sự phát triển chung của mỗi địa phương, của đất nước. Chính quyền các cấp không được phép thờ ơ trước những sáng kiến của quần chúng nhân dân để tránh tình trạng sáng kiến của người dân trong chế độ dân chủ trở thành đặc quyền của một thiểu số người với mục tiêu vụ lợi.

Dân làm” cần được hiểu chủ yếu theo nghĩa “Dân làm” là hiện thân của sự chuyển hóa từ “tư tưởng đã thông suốt” thành những hành động, việc làm cụ thể của nhân dân. Từ chỗ được cung cấp thông tin một cách công khai, trung thực, kịp thời, thông qua bàn bạc, trao đổi ý kiến để tìm ra tiếng nói chung, người dân sẽ tự giác tuân thủ, thực hành các quyền dân chủ theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, Nhà nước phải có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước được trao những quyền hạn nhất định để quản lý, điều hành một số công việc của Nhà nước. Thực hiện tốt cơ chế “dân kiểm tra” đòi hỏi Nhà nước phải tiếp tục xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách phù hợp để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát đối với các mặt hoạt động của chính quyền cấp xã ở tất cả các địa phương, của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã; chất vấn những cán bộ, công chức có thẩm quyền về những vấn đề người dân quan tâm và quyền nghe trả lời những chất vấn đó, đặc biệt là những vấn đề về đất đai, xây dựng, quy hoạch và quản lý đô thị, nông thôn, nước sạch và vệ sinh môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng,...

Thứ ba, “Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội”(11). Đảng ta là đảng cầm quyền và sự cầm quyền đó luôn được đặt trong mối liên hệ mật thiết với nhân dân; vậy nên, thực hành, phát huy dân chủ trong Đảng phải luôn đi trước, tạo khuôn mẫu, mực thước cho nhân dân noi theo. Trong giai đoạn hiện nay, việc phát huy dân chủ trong Đảng để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì còn có một bộ phận cán bộ, đảng viên tuy có nhận thức đúng, đầy đủ về thực hành, phát huy dân chủ nhưng chỉ là trên lý thuyết, còn trên thực tế, nhận thức đó chưa biến thành hành động thực tế, nói không đi đôi với làm.

Cần tiếp tục thực hiện tốt các quy định trong sinh hoạt đảng, như sinh hoạt hai chiều, lấy phiếu tín nhiệm, điều tra, thăm dò dư luận xã hội trong nhân dân - đó chính là những yếu tố cần thiết phục vụ cho công tác xây dựng Đảng hiện nay. Dựa vào dân, giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân cũng là nền tảng giúp Đảng tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức ngày càng trong sạch, vững mạnh. Khi dân chủ trong Đảng thực sự được phát huy thì đó cũng là nền tảng để “Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân”, như văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra.

Thứ tư, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đi liền với việc đề cao trách nhiệm công dân và bảo đảm giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội, không được tách rời, đối lập giữa thực hành dân chủ và kỷ cương, pháp luật. Nhân dân không nên tụ tập đông người, khiếu kiện vượt cấp, gây mất an ninh, trật tự và chống đối người thi hành công vụ trong khi các kiến nghị đang được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật. Nếu cá nhân nào có hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, lợi dụng dân chủ để gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 331 Bộ luật Hình sự năm 2015: “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân”(12). Điều đó khẳng định bản chất dân chủ thực sự của Nhà nước ta./.

------------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 91 - 147

(2), (3), (4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 270, 38, 170

(5), (6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 166 - 167

(7), (8), (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 168, 169

(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 170

(11), (12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 170

Nguồn: tapchicongsan.org.vn, ngày 27/10/2016

Gửi cho bạn bè

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Xem nhiều nhất