|
Quang cảnh Hội nghị |
Đến dự và chỉ đạo Hội nghị có: Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng; Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; các nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Thị Kim Ngân; Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trương Thị Mai, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương; nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng.
Dự Hội nghị có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII cùng các đồng chí cán bộ chủ chốt các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong toàn hệ thống chính trị và đông đảo cán bộ, đảng viên.
Hội nghị được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến từ điểm cầu Trung ương tại Phòng họp Diên Hồng (Nhà Quốc hội) kết nối với 16.242 điểm cầu các ban, bộ, ngành, đoàn thể, đơn vị ở Trung ương và các địa phương trên toàn quốc; có hơn 1.441.200 cán bộ, đảng viên tham dự nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết. Thời gian Hội nghị diễn ra trong 1,5 ngày (trong đó, 1 ngày nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết; 0,5 ngày dành cho các tỉnh, thành ủy và Đảng ủy trực thuộc Trung ương triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị quyết).
|
Các đại biểu tham dự tại điểm cầu Trung ương |
|
Các đại biểu tham dự tại điểm cầu Ban Dân vận Trung ương |
Đại đoàn kết toàn dân tộc - Nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi
Tại Hội nghị, các đại biểu nghe đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước truyền đạt chuyên đề: “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Nhấn mạnh ba lý do rất quan trọng để Trung ương ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW, Chủ tịch nước cho biết, sau 20 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, chúng ta đã có những bước tiến trong xây dựng, củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố, tăng cường và phát huy. Các giai tầng xã hội chuyển biến tích cực, phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm và rút ra một số bài học kinh nghiệm. Bên cạnh đó, thực tiễn sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW và gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước cho thấy, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đã có nhiều thay đổi. Thực tế đó đòi hòi cần ban hành nghị quyết mới về đại đoàn kết toàn dân tộc.
|
Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước truyền đạt chuyên đề tại Hội nghị |
Phân tích, làm rõ 4 quan điểm của Nghị quyết số 43-NQ/TW, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng nhấn mạnh, quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, đường lối chiến lược quan trọng, xuyên suốt của Đảng; nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 làm điểm tương đồng để động viên, cổ vũ nhân dân đồng lòng, chung sức thực hiện vì tương lai của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của Đảng và cả hệ thống chính trị… Mục tiêu đặt ra tại Nghị quyết số 43-NQ/TW là tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được mục tiêu đó, Nghị quyết số 43-NQ/TW đề ra 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu.
Mở rộng toàn bộ các nhóm chính sách xã hội cho mọi đối tượng
Truyền đạt chuyên đề “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”, đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ tập trung vào một số vấn đề trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết, với 5 nội dung chính: Các yếu tố nền tảng của chính sách xã hội; đánh giá khái quát 10 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012; sự cần thiết ban hành Nghị quyết về đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội; những nội dung chính của Nghị quyết số 42-NQ/TW; những điểm mới nổi bật của Nghị quyết số 42-NQ/TW.
|
Đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ truyền đạt chuyên đề tại Hội nghị |
Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, một trong những điểm mới rất quan trọng của Nghị quyết 42 là đã mở rộng ra toàn bộ các nhóm chính sách xã hội cho tất cả các đối tượng; hướng tới mục tiêu mục tiêu tổng quát đến năm 2030 xây dựng hệ thống chính sách xã hội theo hướng bền vững, tiến bộ và công bằng; hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững; phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả, hội nhập quốc tế; đến năm 2045, hệ thống chính sách xã hội phát triển toàn diện, bền vững, tiến bộ và công bằng, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho nhân dân; nằm trong nhóm quốc gia có chỉ số phát triển con người (HDI) cao trên thế giới. Nghị quyết số 42-NQ/TW đưa ra hệ thống 9 nhóm giải pháp đồng bộ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực về chính sách xã hội (nâng cao nhận thức, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; hệ thống an sinh xã hội; nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân; cung cấp dịch vụ xã hội; hợp tác quốc tế; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng).
Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, nâng tầm trí tuệ và sức mạnh dân tộc
Các đại biểu dự Hội nghị cũng nghe đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương truyền đạt chuyên đề: “Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới”. Chuyên đề nêu rõ mục tiêu đến năm 2030 phát triển đội ngũ trí thức về số lượng và chất lượng, nhất là đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành trong lĩnh vực then chốt, trọng yếu, lĩnh vực mới đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo đảm khả thi, đồng bộ; ưu tiên bảo đảm nguồn lực cho đầu tư phát triển khoa học, công nghệ. Tầm nhìn đến năm 2045, đội ngũ trí thức Việt Nam lớn mạnh, có chất lượng cao, cơ cấu hợp lý, thuộc tốp đầu khu vực và tiệm cận với các nước phát triển; nhiều nhà khoa học có ảnh hưởng trên thế giới, đạt các giải thưởng quốc tế trên các lĩnh vực; nhiều tổ chức khoa học và công nghệ, cơ sở giáo dục và đào tạo đạt chuẩn quốc tế đáp ứng yêu cầu của quốc gia phát triển.
|
Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương
truyền đạt chuyên đề tại Hội nghị |
Các nhiệm vụ trọng tâm gồm: tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức; đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức, trọng dụng nhân tài; tăng cường quản lý Nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đối với đội ngũ trí thức; tăng cường nguồn lực xây dựng đội ngũ trí thức chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động các hội trí thức.
Cũng tại Hội nghị, đồng chí Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng truyền đạt chuyên đề: “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.
|
Đồng chí Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng truyền đạt chuyên đề tại Hội nghị |
Để các nghị quyết đi vào cuộc sống thực chất, hiệu quả
Kết luận Hội nghị, đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương nhấn mạnh, sau một ngày diễn ra hội nghị, những nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã được quán triệt một cách nghiêm túc. Các báo cáo đã nhấn mạnh, làm sâu sắc thêm nội dung trong từng nghị quyết về kết quả, hạn chế, nguyên nhân, nêu rõ điểm mới, bối cảnh, quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của nghị quyết và cập nhật thêm một số thông tin liên quan, làm rõ tình hình theo yêu cầu của từng nghị quyết.
|
Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư,
Trưởng Ban Tổ chức Trung ương phát biểu kết luận Hội nghị |
Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương ghi nhận, đánh giá cao các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị đã tham gia nghiêm túc Hội nghị, theo báo cáo của Ban Tuyên giáo Trung ương, số lượng cán bộ, đảng viên tham dự Hội nghị gần 1,5 triệu, với hơn 16 nghìn điểm cầu, có địa phương kết nối tới các xã, phường, thị trấn. Đây chỉ là bước khởi đầu để Nghị quyết đi vào cuộc sống, cần tiếp tục nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các Nghị quyết, nêu cao trách nhiệm, quyết tâm, nỗ lực để đảm bảo các Nghị quyết đạt được kết quả thực chất, gắn với từng địa phương, đơn vị. Trên cơ sở đó, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân, tạo đồng thuận cao trong thực hiện các Nghị quyết của Đảng. Đồng chí Trương Thị Mai đề nghị, sau Hội nghị này, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tiếp tục quán triệt, cụ thể hóa, tổ chức thực hiện nghiêm, quyết liệt, đồng bộ các nghị quyết đạt được kết quả theo yêu cầu của Đảng. Tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nghị quyết đạt được hiệu quả cao, không để xảy ra tình trạng “đầu voi, đuôi chuột”, tránh học tập, quán triệt mang tính hình thức, đối phó, góp phần đưa các nghị quyết đi vào cuộc sống một cách thực chất nhất.
Tin và ảnh: Nhóm PV