Từ xa xưa, người Mông vùng Tây Bắc sinh sống trên những triền núi cao và luôn có ý thức tự chế tạo cho mình những vật dụng để sử dụng trong quá trình lao động, sản xuất. Trong đó, chiếc gùi tre (lù cở) luôn là vật dụng đi liền với đồng bào Mông trong nhiều công việc thường ngày.
|
Phụ nữ Mông Tây Bắc đeo gùi xuống chợ |
Chiếc gùi của người Mông có từ bao giờ, khó ai có thể xác định được, chỉ biết rằng, trong nét văn hóa của đồng bào Mông vùng Tây Bắc, chiếc gùi là hình ảnh rất đỗi quen thuộc, gắn liền với đời sống văn hóa, lao động của họ. Người Mông vẫn kể cho nhau sự tích về chiếc gùi của dân tộc mình rằng, xưa kia có một đôi trai gái yêu nhau nhưng do chàng trai nghèo khó nên không lấy được cô gái, phải bỏ đi biệt xứ. Cô gái ngày ngày ra bụi tre khóc thương chàng trai, ngồi khắc vào thân cây tre những lời thề sắt son. Vào một ngày kia, cô gái quyết định đi tìm chàng trai. Cô đốn cây tre có khắc những lời thề, chẻ ra lấy lớp cật bên ngoài rồi đan thành chiếc rọ hình trụ, cao, loe ở đầu trên, hóp ở dưới đáy giống hình bông hoa gạo. Cô gái miệt mài đi, một ngày nọ cô tìm được chàng trai và hai người sống với nhau hạnh phúc. Chiếc gùi được vợ chồng cô gái dạy cho dân bản đan và dùng như một vật dụng biểu tượng thiêng liêng cho lòng chung thủy của tình yêu đôi lứa.
Để làm được chiếc gùi như ý và bền chắc, người Mông vùng Tây Bắc thường chọn những cây tre (tiếng Mông gọi là xung trở) không quá non và quá già, lột lấy phần cật ngoài cùng, cạo hết phần xù xì để lộ lớp bóng của bề mặt cật; nếu cẩn thận, để cho khỏi mọt, người Mông hay ngâm cật tre xuống nước chừng 2-3 tuần sau đó mới vớt lên để đan gùi.
Việc đan gùi thường dành cho đàn ông. Với bàn tay khỏe khoắn, khéo léo, chỉ trong một thời gian ngắn, những người đàn ông Mông đã cho ra đời những chiếc gùi xinh xắn và nhỏ gọn. Gùi của người Mông có nhiều kích cỡ khác nhau, tùy vào mục đích sử dụng và lứa tuổi người dùng. Thông thường chiếc gùi của đồng bào Mông có miệng tròn, theo hướng tỏa ra, phần thân và đáy hình vuông. Sau khi đan xong, người Mông thường buộc hai sợi dây vải mềm hai bên vừa với vai đeo để khi đeo đồ nặng vai không bị đau nhức. Khi đan, người Mông luôn xoay bề mặt bóng của cật ra phía ngoài để tạo vẻ đẹp cho chiếc gùi.
Chiếc gùi được người Mông Tây Bắc sử dụng trong nhiều công việc hằng ngày. Người lớn, nhỏ, già, trẻ đều có thể đeo gùi sau lưng để làm công việc của mình. Khi lên núi, người Mông đeo theo chiếc gùi đựng hạt giống, nước uống, cơm nắm; khi xuống núi, chiếc gùi đầy ắp những sản phẩm là thành quả lao động như măng rừng, củ quả, rau xanh, những bó lúa trĩu hạt. Khi về đến nhà, chiếc gùi được đặt gọn ở góc nhà hoặc treo trên vách. Mỗi khi xuống chợ phiên, sau lưng những người phụ nữ Mông không thể thiếu chiếc gùi thân thuộc. Khi ấy, họ gùi sau lưng những sản vật như rau, củ, gạo, gà, vịt, rượu, xôi ngũ sắc, ngô, khoai… để mang xuống chợ bán. Hầu hết các thứ hàng hóa nông nghiệp đều được người Mông đựng trong gùi. Những đứa trẻ còn bé xíu, theo bố mẹ xuống chợ cũng được mẹ đặt ngồi trong chiếc gùi cõng sau lưng.
Phụ nữ Mông luôn hãnh diện khi đeo chiếc gùi sau lưng. Nếu là người đã có chồng thì chiếc gùi chứng minh sự đảm đang, khéo léo, giàu tình yêu thương của họ. Nếu là phụ nữ chưa chồng, chiếc gùi sẽ nói với các chàng trai Mông rằng họ rất đảm đang và chung thủy. Chẳng thế mà trước khi phụ nữ Mông về nhà chồng, họ thường đan cho mình một chiếc gùi thật to và đẹp, mang theo quần áo thổ cẩm, trang sức, các vật dụng của cô gái về nhà chồng. Hình ảnh chàng trai Mông cầm khèn, cô gái Mông đeo gùi, cùng dắt ngựa đi dưới rừng mận, rừng đào là một hình ảnh tuyệt đẹp đầy lãng mạn về tình yêu nơi những bản Mông xa xôi.
Chiếc gùi có mặt hầu hết trong đời sống sinh hoạt văn hóa của người Mông Tây Bắc. Gùi hiện diện trong lễ cưới, tết, trong tang ma và trong lễ ăn mừng lúa mới, làm nhà, lễ cúng rừng… Trong những lễ nghi đó, chiếc gùi được người Mông dùng để đựng lễ vật, coi như một biểu tượng của lòng thủy chung, son sắt và mong ước cuộc sống no đủ, hạnh phúc.
Nguồn: baodaklak.vn, 19/7/2018