|
Thủ
tướng Phạm Minh Chính cùng các thành viên đoàn đại biểu Việt Nam dự
và
phát biểu tại tọa đàm chính sách tại Đại học Harvard, thành phố
Cambridge, bang Massachusetts
|
Phát biểu tại sự kiện này, Giáo sư Thomas J. Vallely, Giám đốc Chương trình Việt Nam, Trường Harvard Kennedy, cho biết trong số 12 thành viên đoàn đại biểu Việt Nam tham gia chuyến công tác lần này, có tới 6 Bộ trưởng từng theo học tại Harvard.
Harvard đã thực hiện đối thoại chính sách với phía Việt Nam trong 3 thập kỷ vừa qua, chú trọng vào việc góp phần giải quyết những thách thức lớn nhất mà Việt Nam phải đối mặt trong từng giai đoạn. Nhấn mạnh những thách thức mới mà Việt Nam phải đối mặt trong giai đoạn phát triển mới, Giáo sư cho biết các cử tọa rất muốn lắng nghe các quan điểm của Thủ tướng Phạm Minh Chính.
Hiệu trưởng Trường Chính sách công Kennedy, Đại học Harvard, ông Douglas Elmendorf cũng bày tỏ mong muốn lắng nghe các phát biểu của Thủ tướng về triết lý, tầm nhìn và chiến lược phát triển của Việt Nam. Vị Hiệu trưởng cũng nhắc lại những kinh nghiệm rất thành công của Thủ tướng trong điều hành tỉnh Quảng Ninh trước khi trở thành lãnh đạo ở Trung ương.
Trong bài phát biểu quan trọng tại đây, sau khi điểm lại những kêt quả chính của Hội nghị cấp cao đặc biệt ASEAN-Hoa Kỳ, các cuộc làm việc với các nhà lãnh đạo của Hoa Kỳ, Thủ tướng dành nhiều thời gian phân tích về chủ đề xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả tại Việt Nam.
Tình cảm kép của đoàn đại biểu Việt Nam
Thủ tướng đánh giá cao Đại học Harvard với bề dày lịch sử, truyền thống lâu đời, có tầm ảnh hưởng và danh tiếng vào loại bậc nhất Hoa Kỳ và thế giới. Trong khi đó, bang Massachusetts là một trong những điểm đến trong hành trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người đã nhắc lại tư tưởng rất quan trọng trong Bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
"Việc tôi có mặt ở đây cũng thể hiện tư tưởng độc lập, tự chủ cho hai dân tộc; thể hiện tầm nhìn, mối quan hệ giữa hai nước chúng ta đã được tuyên bố năm 2015 khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Hoa Kỳ", Thủ tướng nói.
Thủ tướng nhắc lại, ngay từ những ngày đầu thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện mong muốn thiết lập quan hệ đối tác bình đẳng, toàn diện với Hoa Kỳ trong những bức thư gửi tới chính quyền Hoa Kỳ năm 1946. Đặc biệt, trong bức thư ngày 16/2/1946 gửi Tổng thống Harry Truman, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Mục tiêu của chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ".
"Tôi đến đây với tình cảm kép, tình cảm của Đại học Harvard dành cho đoàn và tình cảm của mối lương duyên, sự kết nối giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ trải qua những thăng trầm và đột phá, từ khi bắt đầu bình thường hóa quan hệ năm 1995, đã không ngừng phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Mối quan hệ toàn diện này vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới", Thủ tướng nói.
Trong 27 năm kể từ khi hai nước bình thường hoá quan hệ, đã có 4 vị Tổng thống Hoa Kỳ liên tiếp đến thăm Việt Nam và để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng nhân dân hai nước. Vào thời điểm khó khăn của đỉnh dịch COVID-19 năm 2021, Phó Tổng thống Kamala Harris đã tới thăm Việt Nam. Tháng 11/2021, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Tổng thống Joe Biden đã gặp nhau tại Hội nghị COP 26 tại Anh.
Trong quan hệ hai nước, lĩnh vực thương mại đóng vai trò rất quan trọng. Năm 2021, kim ngạch thương mại Hoa Kỳ-ASEAN đạt 362 tỷ USD thì kim ngạch giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đạt 112 tỷ USD, chiếm gần 1/3.
Việt Nam và Hoa Kỳ đã vượt qua được những khác biệt và đạt được những nguyên tắc nền tảng cho quan hệ hai nước, như đã được khẳng định trong Tuyên bố về Tầm nhìn chung Việt Nam-Hoa Kỳ khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Hoa Kỳ vào năm 2015, trong đó nhấn mạnh tôn trọng "thể chế chính trị, độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau". Việt Nam đánh giá cao trong những năm qua Hoa Kỳ luôn ủng hộ một Việt Nam hùng mạnh, độc lập và thịnh vượng.
Ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hiện nay
Thủ tướng nêu rõ, việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thế giới hiện nay.
Trong đó, Việt Nam khẳng định chủ trương nhất quán là kiên định đường lối đổi mới, mở cửa, chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng, thực chất, hiệu quả với bên ngoài. Đường lối đổi mới dựa trên 3 trụ cột gồm: Xóa quan liêu bao cấp, thực hiện đa sở hữu và hội nhập. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng và hợp pháp của các doanh nghiệp, đối tác đầu tư, kinh doanh lâu dài, hiệu quả, bền vững trên nguyên tắc bảo đảm hài hòa lợi ích, chia sẻ rủi ro và tuân thủ pháp luật. Việt Nam mong muốn là bạn tốt, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong giải quyết các vấn đề khu vực, quốc tế và những thách thức toàn cầu vì sự thịnh vượng chung.
Nhờ đường lối đổi mới, đặc biệt là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, từ một nền kinh tế kém phát triển, sau hơn 35 năm đổi mới Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".
Quy mô nền kinh tế không ngừng được mở rộng, năm 2021 đạt trên 362 tỷ USD (so với 4,2 tỷ USD năm 1986); GDP bình quân đầu người đạt gần 3.700 USD, tăng khoảng 26 lần so với năm 1990 (142 USD) (trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động).
Việt Nam đã trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN; một trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới; là nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản đứng đầu thế giới; có mạng lưới 15 hiệp định thương mại tự do (FTAs) đã có hiệu lực. An sinh xã hội và đời sống nhân dân được cải thiện, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm còn 2,2% năm 2021.
Thủ tướng tập trung làm rõ 3 vấn đề:
Thứ nhất, vì sao phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng?
Thứ hai, một số quan điểm, mục tiêu, tư tưởng chủ yếu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng ở Việt Nam.
Thứ ba, một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới.
|
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại tọa đàm
|
Xu hướng chung và mong muốn của hầu hết các nước
Làm rõ vấn đề đầu tiên, Thủ tướng cho rằng, thời gian gần đây, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, khó đoán định trên nhiều phương diện như cạnh tranh chiến lược, xung đột diễn ra gay gắt; rủi ro tài chính, tiền tệ quốc tế và đứt gãy chuỗi cung ứng gia tăng; phản ứng với mặt trái của toàn cầu hóa, các vấn đề về an ninh truyền thống và phi truyền thống như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, già hóa dân số, cạn kiệt tài nguyên, an ninh năng lượng, lương thực, an ninh mạng, an ninh con người…
Bối cảnh đó đòi hỏi các nước phải chú trọng hơn đến xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giảm thiểu tác động trước những cú sốc từ bên ngoài trong quá trình hội nhập; trong đó, khẳng định xu hướng độc lập, tự chủ không có nghĩa là đóng cửa, tự cung, tự cấp mà gắn liền với chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế.
Xu hướng chung và mong muốn của hầu hết các nước, nhất là các nước đang phát triển là hướng tới xây dựng nền tảng kinh tế độc lập, tự chủ vững mạnh, đẩy mạnh công nghiệp hóa gắn với hội nhập quốc tế nhằm vươn lên thoát khỏi "bẫy thu nhập trung bình", trở thành nước phát triển.
Thực tiễn cho thấy, để thành công, mỗi nước đều cần cách làm, lộ trình, bước đi phù hợp gắn với đặc điểm, điều kiện cụ thể; nhưng cần đặc biệt lưu ý một số yêu cầu mang tính phổ quát. Theo đó, độc lập, tự chủ về kinh tế gắn liền với độc lập, tự chủ về chính trị, đối ngoại và hội nhập quốc tế. Việc tôn trọng sự khác biệt về điều kiện, đặc điểm chính trị, kinh tế, lịch sử, văn hóa, xã hội sẽ góp phần tạo ra sự đa dạng, phong phú của kinh tế toàn cầu và lợi thế quốc gia. Cùng với đó, phải tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng các quốc gia dựa trên Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế.
Phân tích thêm về sự cần thiết phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng ở Việt Nam, Thủ tướng nêu rõ, đây là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng dân tộc vĩ đại, danh nhân văn hóa thế giới đã dành cả đời mình phấn đấu cho nền độc lập dân tộc của Việt Nam với tinh thần "không có gì quý hơn độc lập, tự do" gắn liền với "mở cửa và hợp tác" quốc tế.
Thủ tướng nêu dẫn chứng, trong Lời kêu gọi Liên Hợp Quốc (tháng 12/1946), Người đã nêu rõ: "Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực:
(1) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình;
(2) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế;
(3) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc…".
Trong thư gửi Tổng thống Harry Truman (18/01/1946), Người cũng khẳng định: "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ đóng góp công sức vào việc xây dựng hòa bình và thịnh vượng trên thế giới".
Thủ tướng khẳng định, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng là chủ trương nhất quán, kiên định, xuyên suốt của Việt Nam từ khi giành được độc lập dân tộc năm 1945, đặc biệt trong 35 năm đổi mới, nhất là từ đầu những năm 1990 khi Chiến tranh lạnh kết thúc và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Việt Nam vừa hội nhập sâu rộng, vừa nỗ lực vươn lên, nâng cao năng lực nội tại, ứng phó linh hoạt, hiệu quả với các cú sốc từ bên ngoài như: khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008, đại dịch COVID-19 từ 2020 đến nay.
Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng xuất phát từ 3 lý do chủ yếu.
Một là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng chính là để góp phần giải quyết những vấn đề lớn đặt ra đối với Việt Nam.
Hai là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là một trong những yếu tố then chốt để bảo đảm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia. Đây là tất yếu khách quan của việc mở cửa, hội nhập quốc tế.
Ba là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ giúp nâng cao thực lực, tiềm lực cho hội nhập sâu rộng, hiệu quả trong hệ thống kinh tế toàn cầu và thực hiện tốt các cam kết quốc tế.
Những giải pháp lớn để hiện thực hóa mục tiêu phát triển
Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, quan điểm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng đã được xác định rõ, là chủ trương nhất quán, xuyên suốt trong Cương lĩnh xây dựng đất nước, Nghị quyết của Đảng và Hiến pháp.
Theo đó, Cương lĩnh năm 2011 xác định xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định tinh thần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ dựa trên ý chí tự lực, tự cường và phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc gắn với sức mạnh thời đại. Còn theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ phải dựa trên nền tảng bảo đảm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Thủ tướng nêu rõ mục tiêu chiến lược phát triển đất nước của Việt Nam: Đến năm 2030: là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045: trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Để góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển nêu trên, mục tiêu chính của việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng là: Xây dựng nền kinh tế có cơ cấu hợp lý, hiệu quả, bền vững. Nâng cao sức chống chịu và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế; thích ứng linh hoạt, hiệu quả với những biến động tình hình quốc tế, khu vực và trong nước. Tận dụng tốt các cơ hội từ hội nhập quốc tế, tạo động lực thúc đẩy phục hồi nhanh trong ngắn hạn và phát triển bền vững trong trung và dài hạn. Đồng thời, cần đặc biệt chú trọng đến tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống người dân, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: "không "hy sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần".
Về những tư tưởng chủ đạo, Thủ tướng nhấn mạnh, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, dựa trên 3 trụ cột: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN.
Xác định rõ con người là trung tâm, là chủ thể, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Phát huy tối đa trí tuệ, tài năng và năng lực, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trên cơ sở các yếu tố nền tảng, trụ cột chính là con người, thiên nhiên và truyền thống lịch sử, văn hoá. Phát huy tinh thần đoàn kết, trí tuệ, bản lĩnh và đạo đức con người Việt Nam. Xây dựng và phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam, để thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển; trong đó nội lực là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định, ngoại lực là quan trọng, đột phá, thường xuyên; đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển hóa ngoại lực thành nội lực. Tăng cường huy động các nguồn lực xã hội dưới hình thức hợp tác công tư, nhất là cho đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KTXH.
Tập trung thực hiện và tạo chuyển biến rõ nét trong 3 đột phá chiến lược về thể chế, nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng, trong đó chú trọng tạo đột phá về thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Để đạt được những mục tiêu đã đề ra, Thủ tướng nhắc tới một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu.
Trong đó, trước hết là giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, ổn định chính trị - xã hội, tạo nền tảng và điều kiện thuận lợi cho phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng.
Thứ hai là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đồng bộ, hiện đại, hội nhập, phù hợp với các cam kết quốc tế.
Thứ ba là giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, hội nhập sâu rộng, thực chất.
Thứ tư là tập trung cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, tiết kiệm tài nguyên, tăng trưởng xanh.
Thứ năm là huy động mọi nguồn lực xã hội, phát huy vai trò quan trọng của doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Thứ sáu là phát triển nguồn nhân lực và quản trị quốc gia hiện đại. Thủ tướng nhắc tới một số mục tiêu cụ thể hằng năm để phấn đấu đến năm 2025 như năng lực cạnh tranh 4.0 (của WEF) thuộc Nhóm 50 nước đứng đầu; phát triển bền vững (của UN) thuộc Nhóm 40 nước đứng đầu; năng lực Đổi mới sáng tạo (của WIPO) thuộc Nhóm 40 nước đứng đầu hoặc cao hơn; Chính phủ điện tử (của UN) thuộc Nhóm 60 nước đứng đầu; quyền tài sản (của Liên minh quyền tài sản) thuộc Nhóm 60 nước đứng đầu; hiệu quả logistics (của WB) tăng ít nhất 4 bậc; năng lực cạnh tranh du lịch (của WEF) thuộc Nhóm 50 nước đứng đầu; an toàn an ninh mạng (của ITU) tăng ít nhất 3 bậc].
Kết thúc bài phát biểu, Thủ tướng đánh giá cao kết quả hoạt động của Đại học Fulbright và Chương trình Lãnh đạo quản lý cấp cao (VELP) do Đại học Harvard và các cơ quan Chính phủ Việt Nam phối hợp triển khai. Thủ tướng bày tỏ, Việt Nam mong muốn nhân rộng mô hình này với các trường đại học nổi tiếng khác của Hoa Kỳ và thế giới, với cách làm mới hơn, hiệu quả hơn.
Phát triển nhanh và bền vững phải dựa trên động lực mới
Sau đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính và các thành viên đoàn Việt Nam dự tọa đàm chính sách với Giáo sư, sinh viên trường này về định hướng phát triển của Việt Nam trong thế kỷ 21.
Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, năm 2019 ông dẫn đầu đoàn nghiên cứu chiến lược phát triển đất nước đến Harvard lắng nghe ý kiến chuyên gia. Đoàn sau đó đã nghiên cứu và triển khai một số nội dung phát triển bền vững trong các chính sách. Theo đó, muốn phát triển bền vững thì không chỉ có kinh tế bền vững, mà còn phải bền vững trong văn hóa, xã hội, con người. Việt Nam xác định mục tiêu lấy người dân làm chủ thể, mọi chính sách đều xoay quanh người dân, đem lại lợi ích cho nhân dân. "Việt Nam thấy rằng phát triển nhanh và bền vững phải dựa trên động lực mới. Ngoài thể chế, hạ tầng, phải bổ sung hai động lực mới trong ba đột phá là khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và giá trị văn hóa con người Việt Nam", ông Dũng nhấn mạnh.
GS. Kinh tế David Dapice đánh giá việc tham gia những hiệp định thương mại quốc tế là thành công tuyệt vời của Việt Nam. Hàng triệu người lao động nông nghiệp đã vào nhà máy. Tuy nhiên, tình hình dịch bệnh, căng thẳng thương mại sẽ ảnh hưởng đến hàng xuất nhập của Việt Nam. "Cần phát triển đầu vào trong nước, đa dạng hóa nguồn phục vụ xuất khẩu", ông nói. Theo Giáo sư, nền quản trị cũng nên kích hoạt phản ứng nhanh nhạy, còn nền kinh tế số đòi hỏi đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, giao thương với nước ngoài, hợp tác đào tạo giáo dục.
"Thu hút FDI ngày càng khó hơn. Hãy làm sao cho năng lượng tái tạo hiện hữu, tạo lợi thế cạnh tranh so với ASEAN", GS. David Dapice gợi ý, nói thêm rằng muốn trở thành nên kinh tế đáng tin cậy, phải tránh xa nguồn đầu tư không mang lại cạnh tranh cho Việt Nam. Đặc thù của Việt Nam là có nhiều tỉnh ở khu vực xa không có cơ sở hạ tầng thuận lợi, khó để họ tiếp cận, thu hút FDI. GS. David Dapice đề nghị sử dụng những thử nghiệm mới về thuế bất động sản, cho phép địa phương sử dụng thuế bất động sản để đầu tư mà không dùng ngân sách quốc gia.
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng thừa nhận hội nhập kinh tế mang lại nhiều cơ hội cho Việt Nam nhưng Việt Nam cũng phải đối mặt nhiều thách thức. Ngân hàng Nhà nước phải tăng cường phân tích dự báo để đưa ra chính sách đồng bộ, phù hợp thực tiễn; Việt Nam kiên quyết không dùng chính sách tiền tệ để tạo lợi thế cạnh tranh trong thương mại. "Với sự kiên định đó, nhiều năm kết quả kiểm soát lạm phát của Việt Nam rất ấn tượng, đi đôi với tốc độ tăng trưởng khá cao. Thị trường ngoại hối ổn định, là điểm sáng để Việt Nam nâng cao vị trí trong xếp hạng tín nhiệm", bà Hồng nói.
GS. Y khoa David Golan đánh giác cao các giải pháp phòng chống COVID-19 của Việt Nam. Đơn cử như ngay từ đầu, Việt Nam đã quyết định giãn cách, hạn chế đi lại, tăng cường khả năng phản ứng của các cơ sở y tế. Bác sĩ và y tá là đối tượng tác động nhiều nhất nên Việt Nam đã tăng cường trang bị, bảo hộ để hạn chế lây nhiễm. Bộ Y tế đã huy động sinh viên y năm cuối tham gia chóng dịch, truy vết, cách ly. Hơn 80% dân số đã được tiêm chủng, cảm ơn cả Hoa Kỳ.
"Trường Y Harvard hân hạnh tài trợ 700.000 USD đào tạo kiến thức cho 5.800 sinh viên, sau đó triển khai đến các nơi bùng dịch", GS. David Golan nói và cho biết, để giúp Việt Nam có hệ thống y tế mạnh mẽ, kiên cường trong bối cảnh các mối đe dọa, phải đầu tư chuyển đổi từ tiếp nhận kiến thức, sang thực hành. Ban hành chứng chỉ đào tạo gắn liền với các khuôn khổ đào tạo của thế giới. Ông cũng đề xuất Việt Nam thiết lập trung tâm nghiên cứu y sinh, giúp chuyển giao công nghệ, xây dựng y sinh chiến lược. "Tham vọng này đòi hỏi phải có cam kết chính trị cấp cao", ông nhấn mạnh.
Tại buổi tọa đàm, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhận được một số câu hỏi từ các giáo sư, nghiên cứu sinh. Trả lời câu hỏi về các giải pháp để hạn chế tác động từ thượng nguồn tới khu vực ĐBSCL, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết trong cuộc thảo luận với tổng thống Joe Biden ở khuôn khổ Hội nghị Cấp cao đặc biệt cũng đề cập nội dung này. Đây là vấn đề của khu vực nên cần có sự chung tay của các nước, và tác động đến người dân nên phải kêu gọi người dân cùng quan tâm.
Về câu hỏi Việt Nam làm gì để khuyến khích doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, Thủ tướng cho biết đổi mới sáng tạo là quan điểm nhất quán của Việt Nam, phải có kế thừa, ổn định, đổi mới và phát triển. "Phải có hệ sinh thái về đổi mới sáng tạo, trước hết phải có thể chế, nguồn lực, con người, làm sao để mỗi người hào hứng tham gia đổi mới sáng tạo. Đồng thời, phải có sự chung tay hợp tác quốc tế mới tạo ra được hệ sinh thái đổi mới sáng tạo", Người đứng đầu Chính phủ nhấn mạnh.
Một chuyên gia về an ninh mạng người Việt Nam đang làm việc tại Mỹ cho biết muốn hỗ trợ Việt Nam tăng cường năng lực phát triển kinh tế số, vậy có thể hỗ trợ bằng cách nào?
Theo Thủ tướng, an ninh mạng là vấn đề toàn cầu chứ không chỉ riêng Việt Nam. Đây là vấn đề Việt Nam đang hợp tác quốc tế và tự nâng cao năng lực thông qua xử lý các vấn đề xảy ra trong thực tiễn. "Bạn có thể tham gia hỗ trợ tư vấn chính sách, công nghệ liên quan an ninh mạng, đặc biệt là tham gia đào tạo con người, vì tạo ra an ninh mạng hay chống lại nó đều là do con người", Thủ tướng nói.
Phần thuyết trình và tham gia tọa đàm của Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng các đại biểu Việt Nam được các học giả, chuyên gia, sinh viên chăm chú lắng nghe, tiếp nhận. Giáo sư Thomas J. Vallely cho biết: “Chúng tôi có thêm rất nhiều thông tin và học được rất nhiều từ cuộc đối thoại, để có thể cùng Việt Nam nghiên cứu và đề ra giải pháp cho các thách thức của Việt Nam”.
Tại cuộc gặp gỡ, lãnh đạo Trường Harvard Kennedy cũng cho biết đang hợp tác cùng tập đoàn Sovico xây dựng và tài trợ chương trình Sáng kiến Chính sách Khí hậu Việt Nam. Chương trình này sẽ tập trung vào nghiên cứu và đào tạo về khả năng phục hồi của các thành phố ở Việt Nam trước tình trạng biến đổi khí hậu và phát triển năng lượng tái tạo.
(baochinhphu.vn)