Thứ Năm, 21/11/2024
Quán triệt và thực hiện tốt công tác dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

 Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc
tại xã Dur Kmăl, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk, năm 2018 (Ảnh: TTXVN)

Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, cơ đồ đất nước sau 35 năm đổi mới; xác định tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030; xác định nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong 12 vấn đề giai đoạn 2021 - 2025, trong đó vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân được đề cập đậm nét và sâu sắc(2).

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong năm thành tố của chủ đề Đại hội XIII. Báo cáo chính trị Đại hội đã đánh giá: Đảng, Nhà nước đã ban hành và thực hiện có hiệu quả nhiều chủ trương, chính sách và pháp luật mới nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong những năm qua, công tác dân vận đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm, chú trọng và đạt được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào sự thành công của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quan điểm “Dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường. Nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và hệ thống chính trị được nâng cao; coi trọng việc lắng nghe, nắm tình hình và giải quyết những nguyện vọng, kiến nghị hợp pháp, chính đáng của nhân dân; góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Báo cáo cũng đã chỉ rõ hạn chế trong công tác này: Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa được phát huy đầy đủ; cụ thể là:

(1) Các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa được phát huy tốt.

(2) Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, chưa thật sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở; hoạt động giám sát, phản biện xã hội còn hạn chế.

(3) Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và giải quyết kịp thời những quyền lợi hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của người dân.

(4) Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm, vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân.

Ban Dân vận Trung ương đã được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ chủ trì tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW; trên cơ sở đó tham mưu cho Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30/10/2019 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về công tác dân tộc. Kết luận đã nhấn mạnh: Hơn 15 năm qua thực hiện Nghị quyết, công tác dân tộc và đạt được những thành tựu toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố lòng tin của đồng bào dân tộc thiểu số với Đảng và Nhà nước. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp đã cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết phù hợp với điều kiện địa phương, đơn vị. Nhà nước đã ban hành chính sách, pháp luật, bố trí nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tăng cường vận động, tuyên truyền, động viên đồng bào dân tộc thiểu số tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, phát huy nội lực để phát triển kinh tế, cải thiện và nâng cao cuộc sống, đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước… Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư, góp phần tạo diện mạo mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số được cải thiện rõ nét. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân đạt nhiều tiến bộ; các giá trị văn hóa dân tộc truyền thống được bảo tồn và phát huy. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc được bảo đảm; đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố. Hệ thống chính trị cơ sở ở vùng dân tộc, miền núi được tăng cường, đội ngũ cán bộ được kiện toàn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ. Quốc phòng, an ninh, chính trị được giữ vững, ổn định.

Bên cạnh những thành tựu nêu trên, công tác dân tộc vẫn còn những hạn chế là: “Đến nay, chưa thực hiện được một số mục tiêu quan trọng Nghị quyết đã đề ra. Kết quả thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là ở khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Duyên hải miền Trung chuyển biến chậm. So với sự phát triển chung của cả nước và từng địa phương, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn. Kinh tế - xã hội phát triển chậm; tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo và nguy cơ tái nghèo cao; khoảng cách giàu - nghèo có xu hướng gia tăng. Hủ tục, tập quán lạc hậu chậm được khắc phục; còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp về an ninh chính trị, trật tự xã hội…”.

Những nguyên nhân cơ bản được chỉ ra là: “Một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ về công tác dân tộc, thiếu sâu sát trong lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thực hiện Nghị quyết; chưa quan tâm đúng mức đến công tác tạo nguồn quy hoạch, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Chính sách, pháp luật ban hành chủ yếu là hỗ trợ, chưa ưu tiên tập trung đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Chưa chú trọng đúng mức phát huy tiềm năng, lợi thế, văn hóa của từng vùng, từng dân tộc; chưa thúc đẩy việc kết nối vùng đồng bào dân tộc thiểu số với vùng phát triển; một số chính sách chưa tạo động lực cho đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên, tự lập trong cuộc sống…”(3).

Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành điều lệ Đảng (tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng) đã chỉ rõ: “công tác dân vận có nơi, có lúc còn hạn chế; một số cấp ủy, tổ chức đảng còn xem nhẹ công tác dân vận; việc nắm, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là những địa bàn phức tạp chưa kịp thời, sâu sát. Công tác vận động, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng và trách nhiệm của nhân dân còn một số bất cập. Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; tập hợp, phát triển đoàn viên, hội viên; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới…”(4).

Để phát huy ý chí, khát vọng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, Báo cáo chính trị Đại hội XIII đã nêu 5 quan điểm chỉ đạo, trong đó quan điểm thứ ba đề cập đến phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, …, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Báo cáo chính trị nêu những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết  toàn dân tộc, đó là:

(1) Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển.

(2) Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số.

(3) Chú trọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững.

(4) Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

(5) Chống kỳ thị dân tộc, dân tộc cực đoan, dân tộc hẹp hòi; nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.

Quan điểm chỉ đạo trên sẽ có những tác động mạnh mẽ, đa chiều đến công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong bối cảnh có những cơ hội và khó khăn, thách thức đan xen. Trong giai đoạn mới, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho công tác vận động, tuyên truyền, xây dựng và thực thi chính sách ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số đó là:

(1) Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc; công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững. Kiên trì thực hiện các quan điểm của Đảng về công tác dân tộc trong Nghị quyết số 24-NQ/TW và các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI, XII, XIII; xác định rõ công tác dân tộc vừa là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, vừa là vấn đề cấp bách hiện nay; là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị.

(2) Tiếp tục hoàn thiện nhanh hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số. Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải toàn diện, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và phát huy lợi thế, tiềm năng của địa phương, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và tinh thần tự lực của đồng bào dân tộc thiểu số.

(3) Đổi mới mạnh mẽ phương thức vận động, tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, tăng cường đồng thuận xã hội; củng cố lòng tin của đồng bào dân tộc thiểu số với Đảng và Nhà nước, phát huy nội lực, vượt qua khó khăn, thách thức, hòa nhập phát triển cùng đất nước (trên cả ba lĩnh vực: đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; quản lý, thực hiện của Nhà nước; phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội).

(4) Tranh thủ, phát huy mọi nguồn lực, khai thác tốt tiềm năng, lợi thế để phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; bảo đảm quốc phòng - an ninh; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc.

(5) Phát huy vai trò của lực lượng cốt cán, người có uy tín (nghệ nhân dân gian; già làng, trưởng bản; cốt cán tôn giáo…); xây dựng mô hình “Dân vận khéo” ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Các quan điểm của Đảng về công tác dân tộc và công tác dân vận của Đảng thể hiện trong Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12/3/2003 về công tác dân tộc và Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30/10/2019; Chỉ thị số 49-CT/TW, ngày 20/10/2015 của Ban Bí thư về tăng cường và đổi mới công tác dân vận ở vùng đồng bào DTTS; Văn kiện Đại hội Đảng các khóa X, XI, XII, XIII và các chủ trương, chính sách về công tác dân tộc đã thể hiện nhất quán chủ trương, đường lối của Đảng qua các thời kỳ cách mạng. Để công tác dân tộc thực sự là nhiệm vụ chiến lược, thường xuyên, lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cũng như để tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác dân tộc trong tình hình mới, cần quan tâm hơn những vấn đề then chốt sau:

Một là, tiếp tục thực hiện có hiệu quả nguyên tắc: Các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giúp nhau cùng cùng tiến bộ, phát triển.

Hai là, các chủ trương, chính sách phải hướng đến mục tiêu phát triển nhanh và bền vững cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc, giữ vững quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền, biên giới quốc gia.

Ba là, đảm bảo nguồn lực để thực hiện chính sách, trong đó nguồn lực Nhà nước giữ vai trò quan trọng, quyết định để huy động các nguồn lực khác. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu tình hình mới. Nêu cao trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền và hệ thống chính trị, đồng thời khuyến khích sự tham gia chủ động của đồng bào dân tộc thiểu số, khơi dậy ý chí tự lực vươn lên thoát nghèo, nỗ lực phấn đấu cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Bốn là, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Phát huy mọi nguồn lực, thực hiện các giải pháp toàn diện, đồng bộ, đột phá, có trọng tâm, trọng điểm để nâng cao hiệu quả công tác dân tộc, phát triển nhanh và bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên cơ sở phát huy tiềm năng, thế mạnh từng vùng và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; tập trung giải quyết những vấn đề nóng, bức xúc; không ngừng nâng cao mức sống và điều kiện tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản của đồng bào dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và khả năng cân đối, huy động nguồn lực của đất nước (có tập trung, ưu tiên) trong từng thời kỳ; thúc đẩy chính sách kết nối, phát triển liên vùng, rút ngắn khoảng cách phát triển, giảm dần, tiến tới không còn địa bàn đặc biệt khó khăn vào năm 2030.

Những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về công tác dân tộc và công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số cần được nghiên cứu, quán triệt đầy đủ và thực hiện nghiêm túc theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, nhằm không ngừng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song song với đó cần đẩy mạnh nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn công tác dân vận, xác định những vấn đề đặt ra cần giải quyết đối với công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong điều kiện mới. Các cơ quan tham mưu của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cần tăng cường phối hợp tham mưu, đề xuất chủ trương, giải pháp cụ thể, khả thi về công tác dân vận phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đó là yêu cầu đối với một nhiệm vụ quan trọng, cấp bách đặt ra cho công tác dân vận của Đảng trong giai đoạn hiện nay./.

TS. Phạm Tất Thắng
Ủy viên BCH Trung ương Đảng
Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Dân vận Trung ương

-------------------

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, tr.121.

2. Hội đồng lý luận Trung ương, Những điểm mới trong các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb CTQG, tr.08.

3. Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới, tr.02.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập II, Nxb CTQG ST, tr.205, 206.


Gửi cho bạn bè

Các tin khác