|
Hội nghị toàn quốc Tổng kết công tác dân vận và đánh giá kết quả thực hiện
Năm “Đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” 2021, triển khai nhiệm vụ năm 2022
|
Thứ nhất, khẳng định sâu sắc hơn tầm quan trọng và yêu cầu cao hơn về mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân; về vai trò của nhân dân đối với công tác xây dựng Đảng.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, công tác dân vận của Đảng, của hệ thống chính trị luôn được chú trọng và tiếp tục có nhiều đổi mới quan trọng; quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân được củng cố, tăng cường hơn. Tuy nhiên, công tác dân vận có nơi, có lúc kết quả còn hạn chế; công tác vận động, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có nơi hiệu quả chưa cao; việc nắm bắt, đánh giá, dự báo tình hình ở một số địa phương, cơ sở chưa sâu sát; chưa kịp thời giải quyết có hiệu quả những bức xúc, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân và một số vụ việc phức tạp; từ đó, làm ảnh hưởng đến lòng tin và mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng. Bên cạnh đó, vẫn còn một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tiêu cực, tham nhũng, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Công tác xây dựng Đảng đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng có lúc, có nơi vẫn chưa thực sự phát huy hết vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng.
Đại hội XIII của Đảng xác định rõ yêu cầu, nhiệm vụ là: “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”(1). Yêu cầu này đã thể hiện nhận thức mới ở những điểm sau:
Một là, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là mối quan hệ hữu cơ, tất yếu được Điều lệ Đảng xác lập và Hiến pháp ghi rõ, thể hiện trên một số yếu tố cơ bản: 1- Chủ trương của Đảng phù hợp và xuất phát từ nguyện vọng, ý chí, quyền lợi chính đáng của nhân dân; 2- Nhà nước và chính quyền các cấp cụ thể hóa chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện kịp thời, đúng đắn, có trách nhiệm phục vụ nhân dân; 3- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội vận động nhân dân thực hiện; 4- Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức gương mẫu, trách nhiệm, gần dân, giải quyết các vấn đề của nhân dân; 5- Nhân dân được tôn trọng, phát huy vai trò tham gia xây dựng, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và góp ý xây dựng Đảng, chính quyền. Những việc làm đó được thực hiện tốt sẽ góp phần gắn bó chặt chẽ hơn nữa quan hệ giữa Đảng với nhân dân...
Trong các giai đoạn cách mạng, do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, còn có chủ trương chưa sát với thực tiễn; một số chủ trương chậm được thể chế hóa và chậm đến được với nhân dân, khi thực hiện còn có sai sót; còn một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện quan liêu, xa dân, vô cảm, tiêu cực,... làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân và mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Nhưng có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm gìn giữ và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Điều đó được thể hiện qua nghị quyết của các kỳ đại hội và nhiều nghị quyết chuyên đề, chỉ thị, quy định... về mối quan hệ Đảng - Dân và công tác dân vận. Thực tế, qua từng thời kỳ cách mạng, mối quan hệ này đã không ngừng được tăng cường, củng cố và ngày càng bền chắc, là một trong những yếu tố sống còn của Đảng. Song, cũng phải thấy rằng, trong tình hình mới, với nhiều cơ hội và thách thức đặt ra, thì yêu cầu, đòi hỏi và cũng là điều kiện thúc đẩy khoảng cách giữa Đảng với nhân dân cần phải được rút ngắn hơn nữa, để đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, hội nhập quốc tế sâu rộng. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ “thắt chặt” mối quan hệ là yêu cầu cao hơn, thể hiện mối quan hệ không chỉ bền chắc, mà còn gần gũi, khăng khít hơn. Đây là một nhận thức mới hết sức đúng đắn, sâu sắc và hợp với quy luật phát triển.
Theo đó, để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận; có cơ chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới. Đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động, sử dụng có hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội theo hướng thiết thực, tăng cường đồng thuận, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa”(2) và “Phát huy vai trò, sự tham gia của nhân dân trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên cơ sở bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân, giữa các vùng, địa phương; quan tâm đến các đối tượng yếu thế trong xã hội...”(3); “Tiếp tục hoàn thiện và thực thi quy định về đạo đức công vụ trong công tác dân vận, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu... Phê phán, xử lý nghiêm minh những cán bộ, công chức, viên chức thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu dân. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; sâu sát cơ sở, tăng cường đối thoại, tiếp xúc với nhân dân, lắng nghe tâm tư, kịp thời giải quyết nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân”(4).
Hai là, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đưa cụm từ “Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng” vào trong một đầu mục (mục XIV.8), thể hiện nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, vai trò của nhân dân đối với công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới. Điều lệ Đảng (thông qua tại Đại hội XI) đã nêu yêu cầu “Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng” và thực tế của quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng và phát huy vai trò nhân dân để tham gia xây dựng Đảng. Từ đó, Đảng đã ban hành và lãnh đạo thực hiện khá nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, cơ chế để nhân dân giám sát, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền. Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng có lúc, có nơi còn chưa thực sự dựa vào nhân dân; cơ chế để nhân dân tham gia xây dựng Đảng đã có nhưng chưa thật đầy đủ và có lúc thực hiện còn hình thức, chưa đạt hiệu quả như yêu cầu và mong muốn. Vì vậy, việc đưa cụm từ “Dựa vào dân để xây dựng Đảng” vào một mục cho thấy sự nhấn mạnh, sự khẳng định ý nghĩa, tầm quan trọng và yêu cầu cao hơn, cấp thiết hơn, đòi hỏi phải có cơ chế đầy đủ, đồng bộ hơn đối với việc phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Văn kiện xác định rõ: “Tổ chức có hiệu quả, thực chất việc nhân dân tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị; phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên”(5).
Thứ hai, tiếp tục khẳng định vai trò “là chủ” của nhân dân và đề cao hơn nữa việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân.
Từ khẳng định của Đại hội XII: “Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế”(6), cho thấy, trong nhiệm kỳ, quyền làm chủ của nhân dân đã được phát huy cao hơn trong việc tham gia quyết định những vấn đề lớn, hệ trọng của đất nước. Quyền con người, quyền công dân được tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ. Tuy nhiên, dân chủ hóa trong một số lĩnh vực còn chưa thực sự đầy đủ, đồng bộ và chưa theo kịp yêu cầu đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền về dân chủ chưa đúng mức; việc tổ chức thực hiện còn hạn chế, có lúc, có nơi còn hình thức; một số nơi, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm; ngược lại, có nơi còn hiện tượng lợi dụng dân chủ vi phạm kỷ luật, kỷ cương, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội. Điều này đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân chủ và đổi mới việc thực hành dân chủ.
Qua tổng kết lý luận và thực tiễn, Đại hội XIII xác định:“phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân” với những điểm mới sau:
Một là, bổ sung nội dung “dân giám sát, dân thụ hưởng” để hoàn chỉnh thành phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Quan điểm “dân là gốc”, “dân là chủ” và “dân làm chủ” đã được Đảng ta quán triệt, vận dụng trong thực tiễn cách mạng. Qua các kỳ đại hội, Đảng ta luôn đặt nhân dân là chủ thể của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và coi trọng vai trò làm chủ của nhân dân. Đến Đại hội XIII của Đảng, do yêu cầu phát triển đất nước ngày càng cao và trước bối cảnh mới, vai trò của nhân dân cần được đề cao hơn; tư tưởng về phát huy quyền làm chủ của nhân dân được hoàn thiện thêm một bước mới. Vấn đề “dân giám sát, dân thụ hưởng” là hoàn toàn phù hợp và đúng quy luật. Phát huy tốt vai trò giám sát của nhân dân thì sẽ ngăn ngừa được từ sớm, từ xa những tiêu cực trong xã hội. Nhân dân là người trực tiếp làm ra của cải vật chất, tinh thần, thì nhân dân phải là chủ thể được thụ hưởng; sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo là của nhân dân thì người dân phải được thụ hưởng thành quả của sự nghiệp đó. Đó là bản chất của chế độ ta và cũng là động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Việc bổ sung này cũng là bước tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa thực hành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Cương lĩnh 2011 và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước cũng như mọi lợi ích đều thuộc về nhân dân.
Hai là, khẳng định: “đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(7). Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, làm sâu sắc, phong phú hơn quan điểm về nguồn lực con người: “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”(8).
Ba là, xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Đảng và Nhà nước ban hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt trong triển khai, tổ chức, động viên nhân dân thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở, phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn là, nêu rõ yêu cầu: “Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội”(9).
Thứ ba, tiếp tục khẳng định tầm quan trọng và yêu cầu mới cao hơn về chiến lược “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đã phát huy tốt sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; tập hợp, vận động đông đảo nhân dân vào khối đại đoàn kết, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước; huy động các nguồn lực, tiềm năng, sáng tạo trong nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy vậy, có lúc, có nơi tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vẫn còn có mặt hạn chế, chưa đáp ứng kịp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Đến Đại hội XIII, Đảng tiếp tục xác định, “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”, trong đó bổ sung nhiều điểm mới:
Một là, về chủ đề Đại hội: so với Đại hội XII, thành tố thứ hai của chủ đề là “phát huy sức mạnh toàn dân tộc”; đến chủ đề Đại hội XIII, thành tố thứ hai được bổ sung và yêu cầu cao hơn là “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại”. Rõ ràng, sự bổ sung này là một nhận thức mới, hết sức quan trọng, đúng đắn, mang tính dân tộc và thời đại, là yêu cầu rất cao, để phù hợp và đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng trong giai đoạn mới.
Hai là, về quan điểm, nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, Đại hội XIII tiếp tục khẳng định đây là một quan điểm, chủ trương lớn và đã bổ sung trong quan điểm về động lực phát triển: “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực...”(10).
Ba là, đối với các tầng lớp nhân dân, văn kiện đã khái quát, khẳng định quan điểm chung nhất: “mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.”(11).
Bốn là, về lãnh đạo đối với từng giai cấp, tầng lớp, căn cứ yêu cầu của tình hình mới, Đại hội XIII đã bổ sung những quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp mới với: giai cấp công nhân; giai cấp nông dân; đội ngũ trí thức; đội ngũ doanh nhân; thế hệ trẻ; tầng lớp phụ nữ; đồng bào dân tộc thiểu số; đồng bào theo tôn giáo; người Việt Nam ở nước ngoài...
Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Văn kiện Đại hội XIII xác định trọng tâm thứ nhất về phát triển đất nước là: “tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”, đã đưa ra giải pháp: “Đổi mới tổ chức, bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo phương châm hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư, thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân, làm cầu nối quan trọng giữa Đảng và nhân dân. Củng cố, tăng cường lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(12).
Trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội”. Yêu cầu “đẩy mạnh và nâng cao hơn chất lượng, hiệu quả thực chất các phong trào thi đua yêu nước; thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội..; xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(13).
Thứ tư, khẳng định rõ hơn và đề cao hơn trách nhiệm với nhân dân và công tác dân vận của các cơ quan nhà nước.
Bổ sung những điểm mới cơ bản sau: Một là, tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động; “lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(14);
Hai là, “tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội..., phát huy dân chủ; tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, gắn kết với cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân”(15).
Ba là, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”(16); “Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương”(17); “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, an ninh con người... Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững, hài hòa”(18). Đây là sự tiếp nối nhất quán nhận thức của Đảng về vai trò, vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề xã hội, vì mục tiêu phát triển con người. Đó cũng là hạt nhân của định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách phát triển, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Bốn là, “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”(19).
Năm là, “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước...; có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín với nhân dân”(20).
Thứ năm, nhận thức rõ và khẳng định ý nghĩa, tác dụng của phong trào thi đua “Dân vận khéo”.
Lần đầu tiên, một kỳ đại hội của Đảng đã đưa phong trào thi đua “Dân vận khéo” vào Văn kiện đại hội. Văn kiện nêu rõ: “Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, thực hiện tốt phong trào thi đua “Dân vận khéo”, tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng các mô hình, điển hình về công tác dân vận”(21).
Trên cơ sở tổng kết từ thực tiễn các địa phương, phong trào thi đua “Dân vận khéo” được Ban Dân vận Trung ương đề xuất và phát động vào cuối những năm 2000, được các cấp ủy đảng quan tâm và được hệ thống dân vận các cấp triển khai thực hiện khá hiệu quả, tạo sức lan tỏa sâu rộng tới cả hệ thống chính trị, với nhiều mô hình, cách làm hay, thiết thực, đã tạo ra hàng nghìn điển hình tiên tiến mỗi năm, đóng góp tích cực vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới; bảo đảm quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Năm 2013, Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” đã đưa phong trào thi đua “Dân vận khéo” thành nhiệm vụ, giải pháp để các cấp ủy đảng lãnh đạo và hệ thống chính trị tổ chức thực hiện. Vừa qua, phong trào đã được đưa vào Văn kiện Đại hội XIII, điều đó thể hiện sự khẳng định của Đảng về vị trí, ý nghĩa, tác dụng của phong trào này đối với công tác dân vận của Đảng nói riêng và đối với sự phát triển đất nước nói chung.
Có thể khẳng định, việc Đại hội XIII của Đảng bổ sung khá phong phú, toàn diện những nhận thức mới, nội dung mới về công tác dân vận của Đảng là hết sức đúng đắn, sâu sắc; là bước tiến mới, quan trọng về lý luận của Đảng, phù hợp với đòi hỏi của tầm nhìn phát triển đất nước mà Đại hội đặt ra. Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với những nhận thức mới về công tác dân vận, cần cụ thể hóa thành chương trình, kế hoạch, nhất là cụ thể hóa, thể chế hóa những nội dung mới thành chính sách, pháp luật để thực hiện có hiệu quả, góp phần đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với cuộc sống, đến với nhân dân một cách thực chất; thực sự thắt chặt bền vững mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy cao độ nguồn lực, sức mạnh của nhân dân để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, tiếp tục xây dựng đất nước phát triển, xã hội phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
ThS. Bùi Tuấn Quang
Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương
Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
--------------------------------
1, 2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật Hà Nội 2021, t.1, tr.191.
3, 4, 5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr.191 - 193.
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.167.
7, 8, 9, 10, 11. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr. 173, 215 - 216, 173, 110, 165 - 166.
12, 13, 14, 15, 16, 17, 18. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr. 43, 172, 175, 175 - 176, 176, 287, 147 - 148.
19, 20, 21. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr. 177, 178 - 179, 193.