Thứ Năm, 16/1/2025
Những kết quả đạt được qua 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí

1. Xây dựng và tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ để PCTN, LP

1.1. Xây dựng và thực hiện các cơ chế, chính sách về công tác cán bộ: Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tổ chức Trung ương đã chỉ đạo xây dựng, ban hành nhiều quy định, hướng dẫn về công tác cán bộ theo hướng công khai, minh bạch, phân cấp mạnh cho cơ sở và tănquyền hạn cho người đứng đầu. Quốc hội, Chính phủ và nhiều bộ, ngành Trung ương đã ban hành một số Luật, Nghị định, văn bản quy phạm pháp luật, làm cơ sở pháp lý quan trọncho việc cônkhai, minh bạch trontuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức, viên chức.

Các tỉnh ủy, thành ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương đã rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng và tổ chức thực hiện các quy định về công tác cán bộ theo hướng bảo đảm công khai, minh bạch, nhất là việc bổ nhiệm, điều động, luân chuyn, giới thiệu cán bộ ứng cử vào các vị trí lãnh đạo, quản lý của các cơ quan, tổ chức; tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với một số chức danh lãnh đạo các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.

1.2. Xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, lãng phí: Trong 10 năm, cả nước đã có 918 người đứng đầu và cấp phó của người đứnđầu bị xử lý do thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình trực tiếp quản lý, phụ trách([1]). Việc xử lý trách nhiệm người đứnđầu đã có tác dụnrăn đe, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong PCTN, LP.

1.3. Chuyn đi vị trí công tác của cán bộ, công chức: Trong 10 năm, các bộ, ngành, địa phương đã chuyển đổi vị trí công tác 310.694 lượt cán bộ, công chức, viên chức để phòng ngừa tham nhũng([2]). Tuy số lượng cán bộ, công chức, viên chức được chuyển đổi còn ít so với số cán bộ, công chức, viên chức phải chuyển đổi, nhưng đây là một trong những biện pháp góp phần tích cực trong phòng ngừa tham nhũng, được một số ngành, cơ quan, đơn vị thực hiện nhiều năm qua.

1.4. Minh bạch tài sn, thu nhập của cán bộ, công chức: Để cụ thể hóa và triển khai thực hiện quy định của Luật PCTN về minh bạch tài sản, thu nhập, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ ban hành nhiều văn bn quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành([3]). Các bộ, ngành địa phương đã triển khai thực hiện việc kê khai tài sản, thu nhập và công khai bản kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức([4]).Qua 10 năm đã có 4.859 trường hợp được xác minh, phát hiện, xử lý kỷ luật 17 người kê khai tài sản không trung thực.

1.5. Xây dựng và thực hiện quy tắc ng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, chun mực đạo đức của đng viên, cán bộ, công chức:

Trên cơ sở quy định, hướng dẫn của Trung ương, các cấp ủy, tổ chức đảng, bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức, đơn vị đã xây dựng và tổ chức thực hiện quy tắc, chuẩn mực ứng xử, đạo đức của đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức. Trong đó, quy định rõ những điều cán bộ, công chức, viên chức khônđược làm; những điều cán bộ, công chức, viên chức phải làm và những điều cán bộcông chức, viên chức nên làm trong thi hành nhiệm vụ, cônvụ và tronquan hệ xã hội; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, chấn chỉnh tác phong, lề lối làm việc trong thi hành nhiệm vụ, công vụ của cán bộcông chức, viên chức; thường xuyên kiểm tra để chấn chỉnh kịp thời vi phạm([5]); qua đó p phần hạn chế tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, nâng cao chất lượng phục vụ của cán bộ, công chức, viên chức đối với người dân, doanh nghiệp.

1.6. Tiếp tục cải cách chế độ tiền lương, giao quyền tự chủ về tài chính, biên chế và giao khoán kinh phí hoạt động cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị: Đã có 741 đơn vị sự nghiệp cônlập thuộc các bộ, ngành được giao tự chủ về tài chính([6]); tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có 24.890 đơn vị được giao quyền tự chủ tài chính([7]). Nhiều bộ, ngành, địa phương báo cáo kết quả tiết kiệm từ cơ chế giao quyền tự chủ đạt khá([8]); từ đó tạo nguồn để bổ sung thu nhập, nâng cao đời sốncho cán bộ, công chức, góp phần PCTN, LP([9]).

2. Cải cách hành chính, đi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán; công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trên các lĩnh vực theo quy định của pháp luật

2.1. Công tác cải cách hành chính, đi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán có tiến bộ ở hầu hết các cấp chính quyền, nhất là sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 30c/NQ-CP phê duyệt Chương trình tổng thể ci cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020...

Các bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai các nhiệm vụ cải cách hành chính theo Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020; ban hành và tổ chức thực hiện Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Chính phủ; triển khai đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013 - 2020; thiết lập và công bố Bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính tại 4 cấp chính quyền và công khai trên mạng Internet; chuẩn hóa và thống nhất được bộ thủ tục hành chính cấp huyện, cấp xã theo hướng rút gọn([10]).

2.2. Công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và đạt những kết quả tích cực: Trên cơ sở Quyết định số 77/2007/QĐ-TTg, ngày 28-5-2007, Quyết định số 25/2013/QĐ-TTg, ngày 04-5-2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phát ngôn và cuncấp thôntin cho báo chí, nhiều bộ, ngành, địa phương đã xây dựng Quy chế phát ngôn và tổ chức việc cung cấp thông tin cho báo chí theo định kỳ. Các bộ, ngành, địa phương cũng đã quan tâm thực hiện việc kiểm tra để phát hiện, chn chỉnh những sai phạm trong thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị([11]).

3. Xây dựng, hoàn thiện thể chế

3.1. Việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện các quy định về quản lý kinh tế - xã hội đã được quan tâm thực hiện, có tác dụng thiết thực trong phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, nhất là trong các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí, như: đất đai, tài nguyên, khoáng sản, ngân sách, thuế, hải quan, đầu tư công, đấu thầu, đấu giá tài sản, xây dựng, quản lý, sử dụntài sản nhà nước, doanh nghiệp, đầu tưcổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước([12]) v.v... Các bộ, ngành Trung ương cũng đã quan tâm xây dựng, ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội có tác dụng phòng ngừa tham nhũng trong lĩnh vực quản lý nhà nước được giao([13]).

3.2. Các cơ quan chức năng đã tập trung và có nhiều cố gắng trong xây dựng, hoàn thiện thể chế phục vụ PCTN, LP tạo cơ sở chính trị, pháp lý đồnbộ cho công tác PCTN, LP trước mắt cũnnhư lâu dài. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 45 Nghị định, Quyết định, Chỉ thị để cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X), Luật PCTN, Luật THTK, CLPiCác bộ, ngành, địa phương cũng đã ban hành mới 42.168 văn bản; sửa đổi, bổ sung trên 55.416 văn bản để thực hiện Nghị quyết Trunương 3 (khóa X) và Luật PCTN. Đến nay, hệ thống pháp luật nói chung trong đó có pháp luật về PCTNLP đang dần được hoàn thiện đồng bộ, cơ bản bảo đảm cơ sở chính trị, pháp lý cho công tác PCTN, LP.

4. Phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng, lãng phí và thu hi tài sản tham nhũng

4.1. Công tác kiểm tra, thanh tra, kim toán, giải quyết tố cáo:

a. Trong nhiệm kỳ Đại hội X, các cấp ủy đng kiểm tra hơn 1 triệu đảng viên, phát hiện gần 12.000 đảng viên vi phạm, thi hành kỷ luật gần 3.000 trường hợp; kiểm tra trên 180.000 tổ chức đảng, phát hiện hơn 6.000 tổ chức đảng có vi phạm, xử lý kỷ luật 163 tổ chức. Ủy ban Kiểm tra các cấp kiểm tra hơn 73.500 đảng viên, phát hiện hơn 55.000 trường hợp có vi phạm, thi hành kỷ luật gần 30.000 trường hợp; kiểm tra trên 15.800 tổ chức đảng, phát hiện gần 9.400 tổ chức đảng vi phạm, thi hành kỷ luật hơn 1.100 tổ chức đảng. Tổng số đảng viên bị kỷ luật hơn 76.000 trường hợp, số tổ chức đảng bị thi hành kỷ luật gần 1.800 tổ chức.

Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, Ủy ban Kiểm tra các cấp đã tiến hành kiểm tra 2.957 đảng viên có dấu hiệu vi phạm về tham nhũng; cấp ủy các cấp đã thi hành kỷ luật 3.730 đảnviên và Ủy ban Kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 1.143 đảng viên vi phạm liên quan đến tham nhũng, cố ý làm trái.

b. Tron10 năm, toàn ngành Thanh tra và các cấp, các ngành đã triển khai 93.696 cuộc thanh tra hành chính và 834.640 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành. Qua thanh tra, kiểm tra phát hiện nhiều tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm trên các lĩnh vực; kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính đối với 8.234 tập thể, 33.722 cá nhân; kiến nghị thu hồi 142.160 tỷ đồng, 993.978 USD và 51.515 ha đất; chuyển cơ quan điều tra 752 vụ, 1.143 đối tượng. Qua hoạt độnthanh tra cũng đã phát hiện 670 vụ với 1.815 đối tượng có hành vi, biểu hiện tham nhũnvới số tiền, tài sản liên quan là 1.022 tỷ đồng, 73,6 ha đất; chuyển cơ quan điều tra 274 vụ, 429 đối tượng có dấu hiệu tội phạm tham nhũng.

Qua giải quyết 86.463 vụ việc tố cáo về tham nhũng thuộc thẩm quyền, các cơ quan chức năng cũng đã chuyển cơ quan điều tra 653 vụ việc với 1.172 người có dấu hiệu tội phạm tham nhũng.

c. Từ năm 2007 đến năm 2015, Kiểm toán Nhà nước đã thực hiện 1.470 cuộc kiểm toán; kiến nghị xử lý tài chính 163.426 tỷ đồng; kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ 687 văn bản sai quy định hoặc không phù hợp với quy định chung của Nhà nước và thực tiễn; Đặc biệt, từ năm 2011 - 2015, thông qua hoạt động kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện và chuyển 09 hồ sơ về 11 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự được phát hiện qua hoạt động kiểm toán sang Cơ quan Cảnh sát điều tra.

4.2. Công tác điều tra, truy tố, xét xử và thu hồi tài sản tham nhũng:

a. Côntác điều tra, truy t, xét xử các vụ án tham nhũng troncả nước: Cơ quan điều tra đã khởi tố 3.337 vụ án/ 7.789 bị can; Viện kiểm sát nhân dân đã truy tố 2.770 vụ án/ 6.480 bị can; Tòa án nhân dân đã xét xử 2.536 vụ án/ 5.749 bị cáo về các tội danh tham nhũng.

Trong 04 năm (2013, 2014, 2015, 2016) đã triển khai 25 Đoàn công tác kiểm tra, giám sát việc thanh tra vụ việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm tại 8 bộ, ngành và 43 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đến 04-12-2016, trong các vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm đã đưa ra xét xử sơ thm 21 vụ/262 bị cáo, với 8 mức án tử hình, 15 án chung thân, 6 án tù 30 năm, 218 án tù có thời hạn từ 2 năm đến 25 năm.

b. Côntác thu hồi tài sản tham nhũng:

Trong 10 năm, thiệt hại do các vụ án, vụ việc tham nhũng đã gây ra được phát hiện là 59.750 tỷ đồng và trên 400 ha đất; số tiền đã thu hồi cho nhà nước là 4.676,6 tỷ đồng và trên 219 ha đất. Trong những năm gần đây, tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng hằng năm đều tăng, nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với số tài sn bị chiếm đoạt. Tài sn tham nhũng tronmột số vụ án bị tẩu tán, khônkiểm soát và thu hồi được.

5. Công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (THTK, CLP) được quan tâm và đạt những kết quả trên một số lĩnh vực:

5.1. THTK, CLP trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN): Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều Chỉ thị([14]) để chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tăng cường thực hiện các biện pháp THTK, CLP tronquản lý, sử dụng NSNN. Trong các năm 2008, 2011, 2013, 2015 Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện sắp xếp các dự toán chi được giao để tiết kiệm thêm 10% dự toán chi thường xuyên được giao của một số tháng cuối năm([15]).

Chính sách, chế độ về quản lý tài chính đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức khoa học và công nghệ công lập được đổi mới theo hướng tăng tính tự chủ cho các cơ quan, đơn vị, giúp giảm áp lực đối với cân đối NSNN([16]); thúc đẩy các cơ quan, tổ chức chủ động phân bổ nguồn tài chính theo nhu cầu chi tiêu trên tinh thần tiết kiệm, thiết thực và hiệu quả([17]); từ đó tạo nguồn để bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức([18]). Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư các Chương trình mục tiêu Quốc gia giai đoạn 2016 - 2020, giảm từ 16 xuốnchỉ còn 02, qua đó nâncao hiệu quả sử dụng vốn, hạn chế lãng phí. Nhiều địa phương đã thực hiện lồng ghép các Chương trình mục tiêu Quốc gia trên địa bàn để bo đảm hiệu quả và tiết kiệm nguồn lực.

Công tác THTK, CLP trong quản lý, sử dụng NSNN đã đạt được những kết quả tích cực, trong giai đoạn 2007 - 2015 cả nước đã tiết kiệm chi NSNN được trên 90.794 tỷ đồng. Công tác thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử dụng NSNN và kiểm soát chi NSNN đã được tăng cườnggóp phần tích cực tronphòng, chống lãng phí([19]). Nhiều khoản chi không đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ đã được Kho bạc Nhà nước phát hiện, từ chối thanh toán và xử phạt vi phạm hành chính theo quy định([20]).

5.2. Trong mua sắm, quản lý, sử dụng phương tiện đi lại và phương tiện, thiết bị làm việc của cơ quan, tổ chức trong khu vực nhà nước: Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2008 và các văn bn quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật đã được ban hành đồng bộ([21]), theo đó công tác mua sắm, quản lý và sử dụng phương tiện đi lại, phương tiện, thiết bị làm việc trong các cơ quan, tổ chức sử dụng NSNN đã dần đi vào nề nếp. Việc thí điểm mua sắm tài sn, hànhóa từ NSNN theo phương thức tập trung([22])được triển khai thực hiện tại 25 Bộ, ngành, địa phương đănký tham gia, thu được những kết quả tích cực bước đầu([23]). Từ năm 2016 việc mua sắm tài sản tập trung tiếp tục được triển khai mở rộnhơn theo Quyết định số 08/2016/QĐ-TTg ngày 26-02-2016 của Thủ tướng Chính phủ. Tình trạng mua sm, trang bị phương tiện, trang thiết bị làm việc vượt tiêu chuẩn, định mức dần được khắc phục.

Từ năm 2015, thực hiện các quy định mới([24]) về tiêu chuẩn, định mức, chế độ trang bị, sử dụng xe ô tô công, xe ô tô dùng chung tại mỗi cơ quan, đơn vị chỉ còn từ 01 đến 02 chiếc; dự kiến số lượng xe ô tô phục vụ công tác chung sau khi sắp xếp lại theo quy định sẽ dôi ra khoảng 7.000 chiếc, sẽ được điều chuyển cho các cơ quan, đơn vị còn thiếu xe so với tiêu chuẩn, định mức hoặc bán, thu tiền nộp NSNN.

5.3. Trong đầu tư xây dựng; quản lý, sử dụng trụ sở làm việc, nhà ở công vụ và công trình phúc lợi công cộng: Hệ thống văn bản pháp luật, tiêu chuẩn, định mức về quản lý đầu tư xây dựng, đầu tư công đã được hình thành đng bộ([25]). Từ năm 2011, thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ và Chỉ thị 1792/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, hiệu quả quản lý, sử dụng vốn đầu tư đã được nânlên; từng bước khắc phục tình trạng quy hoạch được duyệt nhưng không triển khai thực hiện, đầu tư khôntheo quy hoạch. Công tác kiểm tra, thanh tra các dự án đầu tư được tăng cường, góp phần chấn chỉnh tình trạng vi phạm, gây lãng phí tronđầu tư công. Công tác thẩm tra, quyết toán vốn đầu tư được đẩy mạnh, giúp loại bỏ khỏi giá trị quyết toán các khoản chi sai tiêu chuẩn, định mức, chế độ([26]). Tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản được kiểm soát chặt chẽ hơn; việc xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản đã có chuyển biến tích cực, nợ đọngiảm đáng kể so với trước([27]).

Thực hiện Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg ngày 19-01-2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu Nhà nước, các bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương triển khai rà soát, kê khai và thốnkê diện tích đất đai, tại sở làm việc, nhà công vụ để có phương án sắp xếp lại, xử lý các trườnhợp sử dụng sai mục đích, dư thừa diện tích, đm bo sử dụngđúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ quy định([28]). Tổng số tiền thu được từ bán tài sản trên đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và chuyển mục đích sử dụng đất của các Bộ, ngành, Tập đoàn, tổng công ty nhà nước và các địa phương trên phạm vi cả nước là trên 35 nghìn tỷ đồng([29]).

5.4. Trong quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên: Công tác kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về đất đai của các tổ chức được nhà nước giao đất, cho thuê đất theo Chỉ thị số 134/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ được quan tâm triển khai thực hiện([30]), giúp hạn chế lãng phí do giao đất, sử dụnđất sai mục đích, sai quy định hoặc để đất hoanhóa. Việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất tràn lan trước đây đã dần được khắc phục; sàng lọc được các nhà đầu tư có nănlực, bo đảm đưa đất vào sử dụng, không để bỏ hoang, gây lãng phí.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều Chỉ thị để chỉ đạo tăncườncông tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến và xuất khẩu khoáng sản([31]). Côntác thanh tra, kiểm tra được tăng cường, góp phần phát hiện, chấn chnh, xử lý vi phạm gây lãng phí([32]).

Chương trình mục tiêu quốc gia sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã được triển khai thực hiện từ năm 2006. Các cơ quan, tổ chức sử dụng NSNN đã thực hiện nhiều biện pháp tiết kiệm điện, phấn đấu tiết kiệm 10% chi phí điện năng sử dụnhằng năm.

5.5. Trong quản lý, sử dụng lao động và thời gian lao động khu vực nhà nước: Việc tổ chức thực hiện Luật cán bộ, công chức, Luật viên chức và Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức” đã đạt được những kết quả tích cực trên các nội dung: Xây dựnvị trí việc làm và cơ cấu công chức, viên chức([33]); hoàn thiện hệ thốntiêu chuẩn, chức danh công chức, viên chức([34]); nâng cao chất lượng thi tuyển, thi nâng ngạch công chức; đổi mới phương thức tuyển chọn lãnh đạo cấp vụ, cấp sở, cấp phòng; chấn chỉnh công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức, để nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động công vụ([35]); thực hiện chính sách tinh giản biên chế để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức([36]); đào tạo, bồi ỡng cán bộ, cônchức, viên chức v.v...

5.6. Trong quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp: Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tăncườnkiểm soát việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp nhà nước, rút dần vốn ra khỏi các lĩnh vực ngoài ngành nghề kinh doanh chính và có nhiều rủi ro([37]). Công tác sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được đẩy mạnh([38]). Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011 - 2015 đã được tích cực triển khai thực hiện và thu được một số kết quả tích cực.

5.7. Trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của nhân dân: Trong 10 năm qua, nht là thời gian gần đây ý thức tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng của nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực. Nhiều tập tục lạc hậu gây lãng phí tiền của, thời gian của nhân dân đã từng bước được xóa bỏ.

6. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan, đơn vị chuyên trách về PCTN từng bước được kiện toàn, phát huy hiệu qu

6.1. Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN và cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo:

Ngày 01-02-2013 Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 162-QĐ/TW thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban.

Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN đã chỉ đạo nghiên cứu, xây dựng, trình Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 07-12-2015 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảnđối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng”; chỉ đạo các cơ quan chức năng hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội và PCTN; chỉ đạo đưa 08 vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp ra xét xử và đang chỉ đạo tiếp tục đưa các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp ra xét xử trong năm 2017...

Đồnthời với việc tổ chức lại Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, Bộ Chính trị cũng đã ban hành Quyết định số 158-QĐ/TW, ngày 28-12-2012 thành lập Ban Nội chính Trung ương làm nhiệm vụ Cơ quan Thường trực của Ban Chỉ đạo.

6.2. Các đơn vị chuyên trách chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an và Viện kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục được củng cố, kiện toàn, là những lực lượng chủ công trong chống tham nhũng

Cục Chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2006.

Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng (C48), trực thuộc Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an được thành lập năm 2007. Ngày 07-4-2015, Bộ trưởng Bộ Công an đã ra Quyết định số 1735/QĐ-BCA hợp nhất Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ với Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng thành Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và tham nhũng (C46).

Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án tham nhũng thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao được thành lập và đi vào hoạt động t năm 2007. Đến ngày 20-11-2015, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Quyết định số 05/QĐ-VKSTC-V5 kèm theo quy chế tổ chức và hoạt động của Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án tham nhũng, chức vụ.

6.3. Các ban nội chính tỉnh ủy, thành ủy:

Thực hiện Quy định số 183-QĐ/TW, ngày 08-4-2013 của Ban Bí thư, 63 ban nội chính tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương đã được thành lập.

7. Giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với công tác PCTN, LP được quan tâm hơn

Hoạt động giám sát của Quốc hội đối với công tác PCTN, LP được quan tâm và hiệu quả hơn thông qua việc thảo luận, chất vấn, cho ý kiến đi với các báo cáo của Chính phủ, các bộ, ngành chức năng về công tác PCTN, LP; ban hành Nghị quyết của Quốc hội về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chng tội phạm, nhất là các tội phạm về kinh tế, chức vụ và tham nhũng.

Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp, của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp, của các Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng đã được phát huy, giúp nâng cao vai trò giám sát của xã hội ở cơ sở, góp phần hạn chế tiêu cực, tham nhũng.

8. Hợp tác quốc tế về PCTN

Quan hệ hợp tác quốc tế về PCTN giữa Việt Nam với nhiều quốc gia trên thế giới tiếp tục mở rộng và củng cố. Việt Nam đã phê chuẩn, ban hành Kế hoạch thực hiện Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng; nhiều nội dung Cônước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũntừng bước được nội luật hóa; tổ chức thi hành nghiêm túc các Nghị quyết của Hội nghị quốc gia thành viên Công ước và các thỏa thuận hợp tác trong khu vực.

Việt Nam đã tham gia tích cực, hiệu quả các diễn đàn, sáng kiến khu vực về PCTN. Các cơ quan chức năng của Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan chức năng của các nước tiến hành điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế liên quan đến nước ngoài theo đúng quy định của pháp luật, đạt kết quả tích cực.

Trung Kiên (tổng hợp)

 

Gửi cho bạn bè

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi