|
Đánh chiếm Bắc Bộ Phủ - Tổng khởi nghĩa giành Chính quyền tại Hà Nội
tháng 8-1945. (Ảnh tư liệu) |
Lịch sử cách mạng thế giới cho thấy, một trong những yếu tố làm nên
thắng lợi hoặc thất bại của cuộc đấu tranh chống lại cường quyền, áp
bức, bóc lột và xâm lược là phát huy vai trò của quần chúng nhân dân.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 nổ ra và giành thắng lợi là minh chứng
rõ về điều đó. Với cương lĩnh đúng đắn, Đảng Bôn-sê-vích Nga đã quy tụ
được khối quần chúng công nhân, nông dân nghèo, binh lính và người lao
động, hợp thành lực lượng cách mạng đông đảo, đoàn kết, thống nhất xung
quanh Đảng do V. I. Lê-nin đứng đầu, kiên quyết vùng lên đấu tranh, là
cội nguồn sức mạnh vô địch làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng
Mười. Ngược lại, giai cấp tư sản Nga lúc bấy giờ nắm quyền lãnh đạo
Chính phủ lâm thời ở Trung ương, thay vì đưa ra các chính sách tiến bộ,
lại ban bố các chính sách đi ngược lại nguyện vọng và lợi ích của đông
đảo nhân dân lao động, nên không được quần chúng nhân dân ủng hộ, dẫn
đến thất bại, tạo điều kiện để Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Điều
đó chứng tỏ, vai trò của quần chúng nhân dân là rất to lớn, một trong
những yếu tố quyết định thắng lợi.
Nhận thức rõ điều đó, ngay sau khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác tuyên truyền, vận động,
giác ngộ quần chúng, tập hợp các lực lượng yêu nước tham gia cách mạng
bằng những hình thức thích hợp trong một tổ chức liên minh - Mặt trận
Dân tộc thống nhất Việt Nam. Nhờ đó, đã phát huy sức mạnh của cả dân tộc
để thực hiện thắng lợi mục tiêu của cách mạng trong từng thời kỳ. Thắng
lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một minh chứng sinh động
về công tác vận động quần chúng của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo
cách mạng. Để tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân trong Mặt trận Dân
tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề có ý nghĩa quyết định
là Đảng phải có chủ trương, đường lối đúng đắn, phương pháp tổ chức phù
hợp với tình hình thực tiễn cách mạng và đáp ứng ý chí, nguyện vọng của
nhân dân. Với tinh thần đó, tháng 5-1941, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã ra nghị quyết về đoàn kết toàn dân tộc, tạo cơ
sở để thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất, lấy tên là Việt Nam độc lập
đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Đây là tổ chức “Chủ trương liên hiệp
hết thảy các từng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu
hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp -
Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở”1. Cuối năm 1941, trên tờ
Việt Nam độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi: “Dân ta phải mau mau
tổ chức lại. Nông dân phải vào “Nông dân Cứu quốc hội”. Thanh niên phải
vào “Thanh niên Cứu quốc hội”. Phụ nữ vào “Phụ nữ Cứu quốc hội”. Trẻ
con vào “Nhi đồng Cứu quốc hội”. Công nhân vào “Công nhân Cứu quốc hội”.
Binh lính vào “Binh lính Cứu quốc hội”. Các bậc phú hào, văn sĩ vào
“Việt Nam Cứu quốc hội”. Những hội ấy do Việt Nam độc lập đồng minh lãnh
đạo. Người có tiền giúp tiền, kẻ có sức giúp sức. Đồng tâm hợp lực.
Muôn người một lòng. Nhân cơ hội này mà khôi phục lại Tổ quốc, mà làm
cho Việt Nam hoàn toàn độc lập"2.
Với việc xác định mục đích, tôn chỉ đúng đắn, đáp ứng nguyện vọng cháy
bỏng của các giai cấp và tầng lớp nhân dân, Mặt trận Việt Minh đã thu
hút đông đảo các lực lượng xã hội tham gia dưới các hình thức, như: Công
nhân Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc,
Tự vệ Cứu quốc, v.v. Đây là các tổ chức chính trị - xã hội có cơ cấu
hoàn thiện và chặt chẽ từ Trung ương xuống các địa phương, thích hợp với
mọi lứa tuổi, mọi thành phần xã hội và do đó đã vận động, tập hợp được
đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, góp phần quan trọng vào chuẩn bị
lực lượng cho cuộc Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong cả nước.
Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã kịp
thời ban hành Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”,
trong đó xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là
phát-xít Nhật và nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng Mặt trận Việt Minh
để đoàn kết, vận động, tập hợp nhân dân tham gia cao trào kháng Nhật,
cứu nước. Trong thời kỳ này, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính
sách, đề ra các khẩu hiệu đấu tranh thích hợp, đáp ứng yêu cầu cấp
thiết của thực tiễn cách mạng. Đồng thời, phát động phong trào “Phá kho
thóc để giải quyết nạn đói”, cứu dân, để nhân dân lao động - “những
người cùng khổ” thấy rằng, muốn giành quyền sống thì nhất thiết phải
đoàn kết dưới ngọn cờ Việt Minh, đấu tranh đánh đổ ách thống trị của
phát-xít Nhật và bè lũ tay sai. Bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc và tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, khi quân
Nhật đầu hàng Đồng minh, thời cơ Tổng khởi nghĩa tới, đáp lời kêu gọi
của Đảng và Bác Hồ, nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên khởi nghĩa giành
chính quyền. Ngày 14-8-1945, khởi nghĩa đầu tiên và thắng lợi tại Quảng
Ngãi; ngày 19-8, khởi nghĩa và giành chính quyền ở Thủ đô Hà Nội; ngày
23-8, diễn ra ở Huế buộc địch phải đầu hàng, vua Bảo Đại thoái vị, đánh
dấu sự sụp đổ của chính quyền nhà nước phong kiến ở Việt Nam, v.v.
Như vậy, chỉ trong vòng 15 ngày (từ 14 đến 28-8-1945), cuộc Tổng khởi
nghĩa Cách mạng Tháng Tám đã thành công, chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của
thực dân Pháp, sự cai trị của phát-xít Nhật và lật nhào chế độ phong
kiến quân chủ chuyên chế, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc. Thắng
lợi này là kết quả của sự kiên trì, nỗ lực chuẩn bị lực lượng suốt 15
năm của Đảng và nghệ thuật tạo dựng thời cơ, nắm, chớp thời cơ tiến hành
khởi nghĩa từng phần, tiến lên Tổng khởi nghĩa trên cả nước, nhưng trên
hết là thắng lợi của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin về vai
trò của quần chúng trong lịch sử vào điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam lúc bấy giờ. Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là một điển hình đặc
sắc về công tác vận động, tập hợp quần chúng của Đảng ta. Nó không chỉ
là bài học sâu sắc và có ý nghĩa trong thời điểm đó, mà còn có giá trị
to lớn, lâu dài, được Đảng ta vận dụng thành công trong suốt tiến trình
lãnh đạo cách mạng nước ta.
Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hơn 70 năm qua, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn là công cụ bạo lực
sắc bén, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành,
tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Gắn bó máu thịt với nhân dân,
với đồng bào các dân tộc, không chỉ là nguồn gốc, bản chất, truyền thống
của Quân đội, là tình cảm sâu nặng, mà đó còn là nhiệm vụ chính trị
quan trọng, thường xuyên, thể hiện bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”
và đòi hỏi tất yếu trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội của
dân, do dân, vì dân trong từng giai đoạn cách mạng. Thực hiện chức năng
“đội quân công tác”, Quân đội luôn quán triệt sâu sắc quan điểm công
tác quần chúng của Đảng và những bài học, kinh nghiệm của công tác này
trong Cách mạng Tháng Tám để xác định nội dung, biện pháp tiến hành phù
hợp. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc đứng trước cả thời cơ và thách thức. Các thế lực thù địch đẩy mạnh
thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề “dân chủ”,
“nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” và những hạn chế, tồn tại của ta
trên các lĩnh vực để xuyên tạc, kích động, chống phá, hòng làm giảm lòng
tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ và Quân đội, chia rẽ khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ Quân đội với nhân dân. Cùng với đó, tình
hình biên giới, biển, đảo, thiên tai, thảm họa, dịch bệnh tiếp tục diễn
biến phức tạp; đời sống của bộ đội và một bộ phận nhân dân còn khó
khăn,… đang đặt ra cho công tác dân vận những vấn đề mới cần quan tâm
giải quyết. Vì thế, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị phải nhận thức
đúng tình hình, bám sát định hướng của trên, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
tốt công tác dân vận, trong đó cần tập trung thực hiện tốt một số nội
dung chủ yếu sau:
Trước hết, tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp ủy, người chỉ huy các cấp và cán bộ, chiến sĩ về vai trò, vị trí của công tác dân vận.
Đây là vấn đề quan trọng, cần phải được thực hiện thường xuyên. Đặc
biệt, trong dịp kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9, toàn
quân cần tuyên truyền sâu rộng những kinh nghiệm tiến hành công tác vận
động, tập hợp và phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong thực
hiện mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng; nhân rộng những mô hình, điển hình
“Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt”, v.v. Trên cơ sở đó, vận
dụng sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh công tác dân vận trong
tình hình mới. Yêu cầu của công tác tuyên truyền là làm cho mỗi cán bộ,
chiến sĩ nhận thức đầy đủ ý nghĩa chiến lược của công tác dân vận; nắm
vững mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ công tác dân vận trong giai đoạn hiện
nay. Phải quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận,
ghi sâu lời dạy của Người: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất
quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì
cũng thành công”3. Từ đó, vận dụng cụ thể vào từng công việc,
trên từng lĩnh vực, địa bàn, xây dựng mô hình dân vận phù hợp, hiệu
quả. Công tác dân vận phải góp phần quan trọng vào phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng; củng cố vững
chắc mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước, Quân đội với nhân dân;
tạo động lực để nhân dân đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã
hội, tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Công tác tuyên truyền,
giáo dục phải được tiến hành thường xuyên, bằng nhiều hình thức, biện
pháp, phương tiện, nhất là hệ thống thông tin đại chúng; gắn công tác
tuyên truyền, giáo dục với đẩy mạnh hoạt động thực tiễn, nâng cao hiệu
quả công tác dân vận; xây dựng lề lối, tác phong khoa học, bám sát cơ
sở, địa bàn. Trong quá trình thực hiện công tác dân vận, cần chú trọng
phát huy trách nhiệm của các cấp ủy và mọi cán bộ, đảng viên; kịp thời
khắc phục nhận thức lệch lạc, vi phạm kỷ luật dân vận, làm ảnh hưởng đến
mối quan hệ đoàn kết quân - dân.
Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng đối với công tác dân vận. Sự
lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp là yếu tố quyết định để công
tác dân vận của Đảng trong Quân đội đạt hiệu quả thiết thực. Bởi vậy,
các cấp ủy, tổ chức đảng phải thực hiện nghiêm cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo
đối với công tác này. Theo đó, cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo; chính ủy,
chính trị viên, người chỉ huy chỉ đạo thực hiện; các cơ quan làm tham
mưu; cơ quan chính trị làm trung tâm, cán bộ, chiến sĩ làm nòng cốt và
phân công cấp ủy viên phụ trách công tác dân vận. Đồng thời, tiếp tục
quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 25-NQ/TW (khóa XI) về
“Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận
trong tình hình mới”; Nghị quyết 49-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương “Về
tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Quân đội trong tình hình
mới”; các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của các cấp về công tác dân
vận; cụ thể hóa Chương trình hành động của Quân ủy Trung ương thực hiện
Nghị quyết 25-NQ/TW và Chương trình hành động của Bộ Quốc phòng thực
hiện Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2013-2020 để ra nghị quyết
chuyên đề, xây dựng chương trình, kế hoạch công tác dân vận của đơn vị.
Tập trung làm tốt công tác xây dựng Đảng và rèn luyện đội ngũ cán bộ,
đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng
Đảng và Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; ngăn chặn và đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tăng niềm tin của
nhân dân đối với Quân đội. Cấp ủy các cấp tăng cường giáo dục cho cán
bộ, chiến sĩ thái độ kính trọng dân, gần gũi dân, hiểu dân và trách
nhiệm với dân, bằng chính việc làm, tư thế, tác phong, lối sống của cán
bộ, chiến sĩ và đơn vị. Nội dung lãnh đạo công tác dân vận phải toàn
diện, sát thực tế, đúng như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”4. Các
đơn vị quân đội phải thường xuyên phối hợp với cấp ủy, chính quyền,
đoàn thể địa phương trong tổ chức thực hiện, bảo đảm cho công tác dân
vận hoạt động có nền nếp, chất lượng và hướng mạnh về cơ sở.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới, đa dạng hóa các hình thức công tác dân vận.
Các cấp cần coi trọng công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, xác
định mặt làm được, chưa làm được; lựa chọn mô hình công tác tuyên
truyền, vận động quần chúng có hiệu quả trong thực tiễn để xây dựng và
nhân rộng. Trên cơ sở đó và căn cứ vào yêu cầu công tác dân vận hiện
nay, các đơn vị tiếp tục đổi mới, đa dạng hóa các hình thức vận động,
tập hợp quần chúng nhân dân; duy trì, mở rộng hoạt động kết nghĩa, huấn
luyện dã ngoại kết hợp làm công tác dân vận; củng cố, nâng cao hiệu quả
hoạt động của “Tổ công tác dân vận”; phát huy vai trò của dân quân tự
vệ, các tổ, đội công tác liên ngành ở các địa bàn, cán bộ tăng cường cơ
sở để tiến hành công tác dân vận. Đồng thời, thấm nhuần phong cách:
“trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe
dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”; đẩy mạnh phong trào thi đua, nhân
rộng mô hình “Dân vận khéo”, phát huy nguồn lực trong dân, tranh thủ sự
ủng hộ, giúp đỡ của dân để xây dựng cơ sở, địa bàn vững mạnh.
Thứ tư, thực hiện nghiêm Quy chế dân chủ ở cơ sở, giải quyết tốt mối quan hệ giữa cán bộ với chiến sĩ, cấp trên với cấp dưới. Công
tác dân vận có vị trí, vai trò rất quan trọng. Để tiến hành tốt, phải
tạo được sự đồng thuận của cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ.
Muốn làm có hiệu quả công tác vận động nhân dân, trước hết phải làm tốt
công tác “dân vận” đối với cán bộ, chiến sĩ tại đơn vị. Để làm được điều
đó, các cơ quan, đơn vị cần thực hiện nghiêm Quy chế dân chủ ở cơ sở,
quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng, đời sống của bộ đội; giải quyết hài
hòa các mối quan hệ; giữ vững sự đoàn kết, thống nhất, tạo môi trường
thuận lợi để cán bộ, chiến sĩ phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành. Cán
bộ chủ trì phải thực sự tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống, phong cách; lời nói phải thống nhất với việc làm, gắn bó, gần gũi
với đơn vị; có như vậy mới thu phục được cán bộ, chiến sĩ. Mặt khác,
phải tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy chế, quy định về công tác dân vận;
kết hợp chỉ đạo công tác này với thực hiện nhiệm vụ chính trị, bảo đảm
mọi hoạt động đi vào nền nếp, khoa học, hiệu quả.
Thứ năm, tập trung xây dựng cơ quan dân vận các
cấp vững mạnh toàn diện; xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận có
phẩm chất, năng lực tốt. Theo đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp
phải thường xuyên chú trọng củng cố, kiện toàn cơ quan dân vận; đồng
thời, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận cả về trình
độ lý luận, năng lực tham mưu, kỹ năng công tác và phẩm chất đạo đức,
lối sống, bảo đảm cho họ thật sự tâm huyết với nghề nghiệp, thấu hiểu,
đồng cam, cộng khổ, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân, thông hiểu tiếng
nói, chữ viết, phong tục, tập quán của từng dân tộc; khắc phục tình
trạng đưa cán bộ phẩm chất, năng lực yếu và không có uy tín về làm công
tác dân vận. Mỗi cán bộ làm công tác dân vận phải không ngừng tự học
tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tu dưỡng phẩm chất đạo
đức, phương pháp, tác phong công tác, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ
được giao. Mặt khác, phải thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát,
phát hiện những tập thể, cá nhân thực hiện tốt công tác dân vận để biểu
dương, nhân rộng các điển hình và có hình thức phê bình, kỷ luật những
cá nhân thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm kỷ luật dân vận.
Bài học về công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp quần chúng trong
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay vẫn còn nguyên giá trị đối với
chúng ta. Bởi vậy, cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chính
trị các cấp và đội ngũ cán bộ chuyên trách, những người trực tiếp làm
công tác dân vận cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng phù hợp, đáp ứng tốt
yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác dân vận, góp phần xây dựng “thế trận
lòng dân” vững chắc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ mới.
Thượng tướng PHƯƠNG MINH HÒA, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam
______________
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 149.
2 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 246.
3 - Sđd - Tập 6, tr. 234.
4 - Sđd - Tập 6, tr. 51.
Nguồn: tapchiqptd.vn, ngày 10/8/2015