Tính ưu việt của Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế
Về Luật Bảo hiểm xã hội
Luật Bảo hiểm xã hội đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20-11-2014 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2016. Luật Bảo hiểm xã hội bao gồm 9 Chương và 125 Điều. Có thể khái quát nhận định Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã khắc phục cơ bản những hạn chế, bất cập về chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH) thực thi trong thời gian qua, tiếp cận một cách đầy đủ hơn BHXH của khu vực và thế giới trong quá trình hội nhập quốc tế và đáp ứng tốt hơn quyền được tham gia và quyền được thụ hưởng BHXH của người dân vì mục tiêu an sinh xã hội của mọi công dân theo Hiến định. Điều đó được thể hiện:
Một là, mở rộng độ bao phủ BHXH theo nhiều hướng tiếp cận nhằm gia tăng hơn nữa tỷ lệ số người tham gia BHXH theo các loại hình BHXH một cách ổn định và bền vững.
Bổ sung thêm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc: 1- Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới ba tháng (điểm b khoản 1 Điều 2); 2- Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn (điểm i khoản 1 Điều 2). Mở rộng và tạo điều kiện hơn nữa số người tham gia BHXH tự nguyện bằng việc không khống chế tuổi trần của người tham gia BHXH tự nguyện (khoản 4 Điều 2); có chính sách hỗ trợ người dân tham gia loại hình BHXH này (khoản 1 Điều 87). Giảm dần việc rời bỏ hệ thống BHXH của người đã tham gia bằng quy định hạn chế người được hưởng BHXH một lần đối với người không đủ điều kiện hưởng lương hưu (khoản 1 Điều 60). Gia tăng tính tuân thủ việc tham gia BHXH của người lao động bằng nhiều biện pháp thông qua các quy định về quyền và trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động, các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tổ chức thực hiện từ Trung ương tới địa phương và các cơ quan có liên quan về BHXH (các điều trong Chương I và Chương 2) và các quy định thẩm quyền xử phạt cũng như gia tăng mức xử phạt vi phạm hành chính về BHXH (Điều 121 và Điều 122 Chương VIII).
Hai là, bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người thụ hưởng trên cơ sở giảm dần sự chênh lệch về mức hưởng BHXH giữa các đối tượng tham gia BHXH thuộc khu vực tư và khu vực nhà nước; giữa người lao động khu vực dân sự và lực lượng vũ trang theo hướng tiếp cận tiến dần tới sự công bằng về mức thụ hưởng cho mọi đối tượng tham gia BHXH theo một lộ trình phù hợp đáp ứng đầy đủ nguyên tắc mức hưởng BHXH trên cơ sở mức đóng và thời gian đóng BHXH của người lao động.
Ba là, thể hiện rõ các nguyên tắc bình đẳng giới trong các quy định của Luật Bảo hiểm xã hội. Theo đó, một số quy định được thể hiện theo hướng:
- Điều chỉnh để bảo đảm tốt hơn quyền thụ hưởng BHXH trong chế độ thai sản kể cả lao động nam và nữ (các quy định trong mục 2 về chế độ thai sản tại Chương III).
- Điều chỉnh cách tính mức hưởng lương hưu của lao động nữ theo hướng giảm dần sự chênh lệch về mức hưởng giữa nam và nữ khi có cùng điều kiện tham gia như nhau (khoản 4 Điều 56).
Bốn là, cải thiện tốt hơn tính bền vững của Quỹ Bảo hiểm xã hội trong dài hạn với nhiều giải pháp khả thi theo lộ trình phù hợp. Theo đó:
- Quy định gia tăng độ bao phủ và độ tuân thủ người tham gia trong hệ thống BHXH (các quy định điểm 1 nêu trên).
- Quán triệt nguyên tắc đóng hưởng khi xây dựng các chế độ BHXH (các quy định tại điểm 2 và 3 nêu trên).
- Tăng mức đóng BHXH của người lao động và chủ sử dụng lao động so với trước bằng việc điều chỉnh tiền lương tháng đóng BHXH của người lao động ngoài khu vực công kể từ ngày 1-1-2018 trở đi (khoản 2 Điều 89).
- Điều chỉnh một bước theo hướng tích cực hơn về hình thức đầu tư Quỹ Bảo hiểm xã hội (Điều 92) và về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Quản lý bảo hiểm xã hội (Điều 95).
Năm là, phân định một cách minh bạch và cụ thể hơn về quyền và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan tới BHXH nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động hoạch định chính sách, tổ chức thực hiện, giám sát, thanh tra, kiểm tra BHXH bảo đảm quyền lợi tốt nhất đối với người lao động tham gia BHXH theo luật định.
Sáu là, từng bước tiếp cận và luật hóa một số nội dung đáp ứng các yêu cầu của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực BHXH.
Như vậy, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã có những bước phát triển mới theo hướng tích cực và ngày càng hoàn thiện hơn so với các quy định trước đây và chính các điều đó vừa là cơ hội, vừa là những thách thức không nhỏ trong quá trình triển khai thực thi Luật Bảo hiểm xã hội trong thời gian tới.
Về Luật Bảo hiểm y tế
Bảo hiểm y tế (BHYT) là hình thức bảo hiểm bắt buộc không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện để chăm sóc sức khỏe cơ bản cho nhân dân. Luật Bảo hiểm y tế của Việt Nam, bản chất là BHYT xã hội nhằm chia sẻ rủi ro, giảm gánh nặng chi trả từ tiền của người bệnh và tạo nguồn lực quan trọng để chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Luật Bảo hiểm y tế quy định nguyên tắc của BHYT xã hội là bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHYT; mức đóng BHYT được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương cơ sở; mức hưởng BHYT theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng trong phạm vi quyền lợi và thời gian tham gia BHYT; chi phí khám bệnh, chữa bệnh có BHYT do Quỹ Bảo hiểm y tế và người tham gia BHYT cùng chi trả.
Luật Bảo hiểm y tế được Quốc hội khóa XII ban hành năm 2008, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong hệ thống pháp luật về BHYT, là cơ sở pháp lý cao nhất về BHYT. Tính đến năm 2012, sau gần 5 năm thực hiện Luật Bảo hiểm y tế, chúng ta đã đạt được kết quả bước đầu quan trọng về BHYT, có gần 67% dân số tham gia BHYT, khẳng định chủ trương, quan điểm đúng đắn, nhất quán của Đảng, Nhà nước về chính sách BHYT và tính ưu việt của BHYT. Việt Nam đang từng bước tiếp cận với mục tiêu BHYT toàn dân, góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển kinh tế và bảo đảm chính sách an sinh xã hội phù hợp xu thế chung của thế giới.
Để tiến tới BHYT toàn dân và đạt mục tiêu xây dựng nền y tế công bằng, hiệu quả và phát triển, Quốc hội đã ban hành Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế (năm 2014). Luật này có nhiều nội dung đổi mới thể hiện rõ tính ưu việt của BHYT, đó là mở rộng đối tượng tham gia BHYT, mở rộng phạm vi quyền lợi BHYT và mức hưởng BHYT; mở thông tuyến khám, chữa bệnh có BHYT; quy định cụ thể việc quản lý và sử dụng Quỹ Bảo hiểm y tế; quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan…
Thứ nhất, mở rộng đối tượng tham gia BHYT: Luật quy định bắt buộc tham gia BHYT đối với mọi đối tượng, thể hiện quyết tâm chính trị nhằm thúc đẩy thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân và đề cao tính pháp lý nhằm gắn trách nhiệm của mọi người dân tham gia BHYT, bảo đảm nguyên tắc chia sẻ của người tham gia BHYT.
Thứ hai, mở rộng phạm vi quyền lợi và mức hưởng BHYT. Theo đó:
- Bỏ quy định cùng chi trả 5% đối với người nghèo, người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, người đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo.
- Bỏ quy định cùng chi trả 20% đối với thân nhân của người có công với cách mạng là cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con của liệt sĩ, người có công nuôi dưỡng liệt sĩ; giảm mức cùng chi trả từ 20% xuống còn 5% với thân nhân khác của người có công và người thuộc hộ gia đình cận nghèo.
- Quỹ Bảo hiểm y tế thanh toán 100% chi phí khám, chữa bệnh khi người bệnh có thời gian tham gia bảo hiểm y tế 5 năm liên tục trở lên và có số tiền cùng chi trả chi phí khám, chữa bệnh trong năm lớn hơn 6 tháng lương cơ sở.
- Quy định cụ thể mức hưởng BHYT đối với các trường hợp khám, chữa bệnh không đúng tuyến và bổ sung quy định Quỹ Bảo hiểm y tế thanh toán trong các trường hợp tự tử, tự gây thương tích, tai nạn giao thông, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Bổ sung quy định cơ quan BHXH chịu trách nhiệm đóng BHYT cho người đang nghỉ thai sản; bổ sung quy định trẻ em dưới 6 tuổi được Quỹ Bảo hiểm y tế chi trả điều trị lác, cận thị, tật khúc xạ của mắt; trong trường hợp trẻ đủ 72 tháng chưa đến kỳ nhập học thì thẻ BHYT có giá trị đến ngày 31-9 của năm đó.
Những quy định này nhằm giảm các gánh nặng chi phí khám, chữa bệnh cho người tham gia BHXH và tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế đối với một số đối tượng chính sách và các nhóm đối tượng yếu thế.
Thứ ba, mở thông tuyến khám, chữa bệnh có BHYT để tăng việc tiếp cận của người tham gia BHYT với dịch vụ y tế chất lượng.
Thứ tư, quy định cụ thể việc quản lý và sử dụng Quỹ Bảo hiểm xã hội: Luật cho phép đến hết ngày 31-12-2020 các địa phương có phần kinh phí chưa sử dụng hết được sử dụng 20% để hỗ trợ hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh BHYT; từ ngày 1-1-2021, phần kinh phí chưa sử dụng hết được hạch toán toàn bộ vào quỹ dự phòng để điều tiết chung.
Việc Quỹ Bảo hiểm y tế được quản lý tập trung, thống nhất ở cấp quốc gia nhằm tập trung nguồn lực, điều tiết chung trong phạm vi cả nước và bảo đảm thực hiện đúng mục tiêu chia sẻ rủi ro giữa các đối tượng.
Thứ năm, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức liên quan. Theo đó:
- Quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Y tế trong việc quy định thống nhất giá dịch vụ, quy định gói dịch vụ y tế cơ bản. Bổ sung trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc triển khai thực hiện BHYT và giao trách nhiệm Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong việc kiểm tra, rà soát để tránh cấp trùng thẻ BHYT cho các đối tượng.
- Bổ sung quy định trách nhiệm của ủy ban nhân dân cấp xã trong việc lập danh sách để cấp thẻ BHYT cho các đối tượng, lập danh sách đề nghị cấp thẻ BHYT cho trẻ đồng thời với việc cấp giấy khai sinh.
Như vậy, cùng với hoàn thiện chính sách, pháp luật về y tế, đầu tư nâng cao năng lực của ngành y tế, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế có những bước tiến quan trọng, tạo cơ chế tài chính bền vững trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, tạo sự công bằng trong việc thụ hưởng phúc lợi xã hội của mọi công dân, góp phần thực hiện mục tiêu công bằng xã hội và giảm nghèo bền vững.
Thách thức trong triển khai Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế
Một là, nhận thức của người lao động, người sử dụng lao động chưa thật tự giác và chủ động, tính tuân thủ pháp luật chưa cao sẽ là một trong các thách thức lớn trước những quy định mới về tăng độ bao phủ và tính tuân thủ tham gia BHXH, BHYT khi thực thi các quy định này.
- Trong 125 Điều của Luật Bảo hiểm xã hội, phần lớn các quy định này tác động trực tiếp đến các đối tượng tham gia BHXH, trong đó có hai vấn đề sẽ có tác động lớn, đó là quy định về: 1- Bổ sung đối tượng người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc được thực thi từ ngày 1-1-2008; 2- Tiền lương tháng đóng BHXH theo chế độ tiền lương của người sử dụng lao động quyết định được đóng theo quy định của khoản 1 Điều 90 của Bộ luật Lao động và cũng được thực thi từ ngày 1-1-2018.
Các quy định nêu trên có ý nghĩa tích cực và nhân văn nhằm đáp ứng tốt quyền tham gia BHXH của mọi người lao động trong khu vực hưởng lương, bảo đảm tốt mức lương hưu khi người lao động đủ điều kiện nghỉ hưu và góp phần cải thiện đáng kể tuổi thọ của Quỹ Hưu trí trong dài hạn. Tuy nhiên một khi nhận thức của các đối tượng có tác động trực tiếp bởi các quy định này chưa đầy đủ thì sẽ luôn xảy ra hiện tượng thiếu trung thực trong kê khai, gian lận về số lượng đối tượng tham gia BHXH theo luật định và đóng không đúng, không đủ mức đóng theo quy định. Đây là tồn tại đã kéo dài trong nhiều năm đặc biệt phổ biến ở khu vực ngoài nhà nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà từ lâu các cơ quan quản lý, cơ quan tổ chức thực hiện thiếu các công cụ quản lý, kiểm soát có hiệu quả. Nếu như không có nhận thức đầy đủ, tự giác từ phía các chủ thể chịu tác động và cùng hiện thực hóa một số giải pháp liên quan tới cơ chế quản lý, cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra, đổi mới về thủ tục hồ sơ, tuyên truyền, vận động để toàn dân hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ... thì sẽ là rào cản khi thực hiện các quy định này.
- Trong khi tỷ lệ bao phủ BHYT bình quân cả nước năm 2014 khoảng 71%, thì vẫn còn khoảng 29% dân số chưa tham gia BHYT, mà chủ yếu là đối tượng sống ở khu vực nông thôn, làm nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình, người buôn bán nhỏ, lao động tự do tại các khu đô thị; còn một số địa phương có tỷ lệ tham gia BHYT thấp so với mức bình quân chung của cả nước. Mặt khác, bên cạnh nhiều tỉnh có quỹ bảo hiểm y tế kết dư hàng trăm tỷ đồng thì một số địa phương liên tục bội chi quỹ bảo hiểm y tế nhiều năm mà chưa có biện pháp giải quyết hữu hiệu.
Hai là, hệ thống các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế chỉ giới hạn ở một số điều, khoản được giao trong Luật, trong khi đó không ít điều nếu không được làm rõ thì sẽ tạo ra những khó khăn trong việc tổ chức triển khai thực hiện.
- Thống kê cho thấy Luật Bảo hiểm xã hội có 26 Điều, khoản ghi trong Luật được Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết. Theo đó, tại Quyết định số 112/QĐ-TTg, ngày 22-1-2015, của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản thì sẽ có 07 nghị định của Chính phủ và 01 quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn các điều, khoản của Luật Bảo hiểm xã hội nêu trên. Vấn đề đặt ra, các nghị định và quyết định được soạn thảo kèm theo các thông tư hướng dẫn giới hạn bởi các điều được giao trong Luật liệu đã có thể giúp những đối tượng chịu sự điều chỉnh của Luật hiểu đầy đủ và dễ dàng trong thực hiện?
- Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế(1) giao Chính phủ, Bộ Y tế và các bộ, ngành liên quan hướng dẫn 16 vấn đề. Đến nay, Chính phủ và các bộ, ngành đã hướng dẫn 7 vấn đề cốt lõi (đạt 43,7% kế hoạch) nên Luật Bảo hiểm y tế được vận hành và đang đi vào cuộc sống; vẫn còn 9 vấn đề chưa được hướng dẫn (chiếm tới 56,3% kế hoạch). Trong số 9 vấn đề này có 1 vấn đề thuộc trách nhiệm của Chính phủ, 4 vấn đề thuộc trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Y tế, 2 vấn đề thuộc trách nhiệm liên Bộ Tài chính - Bộ Y tế, 2 vấn đề thuộc trách nhiệm của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an.
Để đẩy mạnh triển khai Luật Bảo hiểm y tế và thực hiện BHYT toàn dân, Chính phủ, Bộ Y tế và các bộ, ngành liên quan cần tập trung hoàn thiện việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Ba là, yêu cầu về tính công khai, minh bạch trong cung cấp thông tin về các vấn đề liên quan tới việc quản lý đối tượng, giải quyết các chế độ thụ hưởng đối với người tham gia; đơn giản về thủ tục hồ sơ và rút ngắn thời gian giải quyết tạo thuận lợi cao nhất với người tham gia trong khi bộ máy tổ chức thực hiện còn không ít hạn chế, bất cập về năng lực cán bộ, sự gắn kết của hệ thống bộ máy BHXH từ Trung ương tới địa phương và về kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin để thực hiện các yêu cầu này. Đây là một thách thức lớn trong triển khai Luật Bảo hiểm xã hội và Luật Bảo hiểm y tế.
Bốn là, nguồn lực về tài chính và con người trong thực hiện một số chính sách, chế độ BHXH chưa được định lượng cụ thể để xác định rõ thời gian, mức được hỗ trợ cho người lao động tham gia loại hình BHXH tự nguyện cũng là một thách thức cần được tính tới trong việc triển khai Luật Bảo hiểm xã hội và Luật Bảo hiểm y tế.
Với mục tiêu và định hướng nhân văn bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, Luật Bảo hiểm xã hội đã thiết kế một số quy định nhằm tạo thuận lợi tốt cho người lao động tham gia loại hình BHXH tự nguyện, đặc biệt là người lao động trong khu vực nông thôn, lao động làm việc trong khu vực phi kết cấu (khu vực không có quan hệ lao động). Theo đó, một số điều chỉnh thật sự có ý nghĩa, đó là: 1- Không khống chế tuổi trần của người tham gia; 2- Mức thu nhập tháng thấp nhất bằng mức chuẩn các hộ nghèo của khu vực nông thôn; 3- Có chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH cho người tham gia; 4- Linh hoạt trong phương thức đóng: đóng một lần cho nhiều năm và đóng một lần cho những năm còn thiếu. Như vậy, những khó khăn mà người lao động tham gia BHXH tự nguyện trước kia gặp phải tạo nên sự kém hấp dẫn thu hút người lao động tham gia trong thời gian trước kia đã cơ bản được tháo gỡ. Tuy nhiên, do nguồn lực tài chính chưa được định rõ nên khoản 1 Điều 87 Luật Bảo hiểm xã hội có quy định: Căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, khả năng ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ để quy định mức hỗ trợ, đối tượng hỗ trợ và thời điểm hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Vấn đề đặt ra thời điểm nào sẽ thực thi chính sách này để người lao động có thể tin rằng chính sách này là khả thi khi thực hiện.
Giải pháp hướng tới bảo đảm an sinh xã hội cho người dân
Chủ động vượt qua mọi thách thức trên, đưa Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế vào cuộc sống trên cơ sở tổ chức thực hiện một cách căn cơ và nghiêm túc chính là bảo đảm an sinh xã hội cho người dân. Theo đó, bao gồm một số giải pháp chính sau:
Thứ nhất, tuyên truyền một cách sâu rộng những nội dung cơ bản nhất của Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế đối với các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức và trước hết tập trung nâng cao nhận thức của các đối tượng chịu tác động trực tiếp của các quy định trong Luật.
- Nội dung tuyên truyền được xác định phải tương thích với đối tượng cần tác động. Các nội dung này nên được xác định thống nhất với một sự chỉ đạo chung, nhất quán theo một kế hoạch tổng thể từ sự thống nhất của hai cơ quan Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội với Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Khắc phục tính hình thức và dàn trải.
- Xác định một cách đầy đủ hơn vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, như Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, sự vào cuộc có hiệu quả của cơ quan thông tấn, báo chí... trong hoạt động tuyên truyền pháp luật về BHXH, BHYT. Sự phối hợp chặt chẽ có nội dung, kế hoạch, có chương trình hành động thiết thực sẽ tác động tốt đối với người lao động trong nhận thức cũng như trong việc chủ động tham gia các loại hình BHXH theo luật định.
- Đổi mới các hình thức tuyên truyền, tránh hình thức. Lựa chọn hình thức nào có kết quả theo đó, các cơ quan, tổ chức đánh giá lại hoạt động tuyên truyền này trong thời gian qua để có thể lựa chọn được các hình thức cần được tập trung hơn và mở rộng hơn trong thời gian tới.
Thứ hai, bảo đảm đúng tiến độ trong việc thực hiện xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội theo quy định của Chính phủ với chất lượng cao, thuận tiện trong thực thi và khả thi trong áp dụng.
Thứ ba, chủ động xác định nguồn lực tài chính hỗ trợ cho người lao động tham gia BHXH tự nguyện theo các phương án khác nhau để trình Chính phủ sớm quyết định những quy định đã ghi trong Luật: thời điểm, mức hỗ trợ, đối tượng nhận hỗ trợ và thời hạn hỗ trợ.
- Để có cơ sở cho các cơ quan hoạch định chính sách, cơ quan tổ chức thực hiện xây dựng kế hoạch tổng thể về lộ trình gia tăng quy mô người lao động tham gia BHXH tự nguyện trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương góp phần thực hiện có kết quả mục tiêu tăng độ bao phủ người lao động tham gia BHXH, BHYT bảo đảm an sinh xã hội cho người dân.
- Giai đoạn 2016 - 2020, ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ đóng BHYT thực hiện theo quy định mới của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Bảo hiểm y tế. Các bộ, ngành chức năng cần chủ động xác định nguồn lực tài chính hỗ trợ cho người dân tham gia BHYT theo các phương án khác nhau để trình Chính phủ sớm quyết định những quy định đã ghi trong Luật Bảo hiểm y tế.
Tất cả các giải pháp nêu trên không ngoài mục đích khắc phục những thách thức đặt ra khi triển khai Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế trong thời gian tới. Giải quyết tốt các biện pháp nêu trên cũng sẽ mang lại những kết quả thiết thực cho việc thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đến năm 2020, đó là: Thực hiện có hiệu quả các chính sách, chế độ BHXH, BHYT; tăng nhanh diện bao phủ đối tượng tham gia BHXH, nhất là BHXH tự nguyện; thực hiện BHYT toàn dân. Phấn đấu đến năm 2020, có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia BHXH, 35% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp; trên 80% dân số tham gia BHYT. Sử dụng an toàn và bảo đảm cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội trong dài hạn; quản lý, sử dụng có hiệu quả và bảo đảm cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội. Xây dựng hệ thống BHXH, BHYT hiện đại, chuyên nghiệp, hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế./.
Phương Ngọc