Thứ Ba, 24/12/2024
Quân đội thực hành công tác dân vận trong tình hình mới theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
 
Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói chuyện với bộ đội. Ảnh: TL 


1. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về công tác dân vận

Với Hồ Chí Minh, yêu thương nhân dân không chỉ là sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần, mà là quá trình, khơi dậy, phát huy sức mạnh tiềm ẩn của nhân dân để họ thực sự trở thành động lực của cách mạng và là chủ thể của mọi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Vì vậy, yêu thương nhân dân ở Hồ Chí Minh không chỉ biểu hiện trong tư tưởng, mà còn luôn biểu hiện trong quá trình vận động nhân dân và nêu gương về đạo đức cách mạng để nhân dân tin theo Đảng, theo cách mạng. Quá trình đó đã tạo nên đạo đức, phong cách của Người về công tác dân vận và sự thống nhất giữa tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về công tác dân vận đã trở thành chuẩn mực cho công tác vận động quần chúng của Đảng ta hiện nay.

Thực tế cho thấy, sau khi xác định được con đường cứu nước đúng đắn, Hồ Chí Minh đã sớm nghĩ đến công tác dân vận. Trong Thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp, đầu tháng 6 năm 1923, Người viết: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”[1]. Như vậy, khâu đầu tiên trong tiến trình cách mạng theo Hồ Chí Minh, chính là công tác vận động quần chúng để thức tỉnh, khơi dậy tiềm năng cách mạng của nhân dân, làm cơ sở để tiến hành các khâu các bước tiếp theo.

Người cho rằng, công tác dân vận là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của cách mạng, có quan hệ mật thiết đến thành bại của cách mạng. Bởi lẽ, theo Người “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân”[2]. Người cũng nhắc lại câu ca dao: “Dễ mười lần không dân cũng chịu; Khó trăm lần dân liệu cũng xong"[3]. Đề cao vai trò của dân, phải gắn liền với phát huy trách nhiệm của dân. Theo Người, cách mạng là nhằm đem lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Do đó, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân và là trách nhiệm của toàn thể dân chúng, chứ không phải việc riêng của một cá nhân anh hùng nào. Vì vậy, trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, Người chỉ rõ: “Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”[4]. Khi nói về đạo đức công dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”[5].

Hồ Chí Minh cũng cho rằng, tiến hành công tác dân vận là chức năng và nhiệm vụ của Đảng. Bởi theo Người, có Đảng cách mệnh là để “trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[6]. Luận điểm này cho thấy, chủ thể của công tác dân vận chính là Đảng, mà trực tiếp là mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng và chỉ khi Đảng có làm tốt công tác dân vận, cách mạng mới thành công. Nói về chủ thể của công tác dân vận trong điều kiện một đảng cầm quyền, Người còn chỉ rõ: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh, v.v.) đều phải phụ trách dân vận”[7].

Theo Hồ Chí Minh, đối tượng của công tác dân vận là toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt dân tộc, giai cấp; lứa tuổi; tín ngưỡng, tôn giáo. Người chỉ rõ: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”[8]. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đối tượng của công tác dân vận không chỉ là nhân dân trong nước, mà còn là giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới. Bởi lẽ, sự ủng hộ giúp đỡ của giai cấp công nhân và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới là nguồn động lực quan trọng để nhân dân ta giành thắng lợi trong đấu tranh cách mạng.

Về yêu cầu đối với chủ thể của công tác dân vận, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”[9]. Người cũng khẳng định: “Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”[10]. Luận điểm này không chỉ là nguyên tắc lý luận về sự bảo đảm cho thành công của công tác dân vận, mà còn là triết lý hành động trong suốt cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh.

Những quan điểm cơ bản trên đây luôn thống nhất với thực tiễn hoạt động công tác vận động quần chúng của Hồ Chí Minh. Quá trình thực hành công tác dân vận cũng đồng thời là quá trình Người không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện và nêu tấm gương sáng ngời cho các tầng lớp nhân dân về trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng, quốc gia, dân tộc; về ý chí quyết tâm, về sự chịu đựng gian khổ, hy sinh; về sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân và gia đình; về sự giản dị, chân thành, tình cảm trong giao tiếp với nhân dân. Có thể thấy, Người không chỉ tạo nên tấm gương mẫu mực về công tác dân vận, mà còn tạo thành một phong cách dân vận mang tên Hồ Chí Minh. Phong cách dân vận Hồ Chí Minh luôn thống nhất với tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người, có giá trị phổ quát và trở thành chuẩn mực chung cho mọi chủ thể của công tác dân vận. Phong cách đó có thể nhận diện và phân biệt với phong cách của các chủ thể khác thông qua những đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, luôn xuất phát từ thực tiễn cách mạng và lợi ích, nguyện vọng của nhân dân để tư duy về công tác dân vận. Tại Hội nghị tuyên giáo miền núi, ngày 11/9/1963, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”[11].

Thứ hai, luôn diễn đạt ngắn gọn, dễ hiểu nhất về yêu cầu, nhiệm vụ công tác dân vận và trách nhiệm của dân trong từng giai đoạn cách mạng. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người chỉ rõ: “Sách này muốn nói cho vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ… Sách này chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”[12].

Thứ ba, luôn đề cao dân chủ, tôn trọng dân, lắng nghe dân, học hỏi dân. Người cho rằng, dân chủ nghĩa là “Dân là chủ và dân làm chủ”. Theo đó, trong xã hội, cái gì cũng là thuộc quyền sở hữu của dân. Do vậy, cán bộ, đảng viên các cấp chỉ là người tự giác nhận trách nhiệm hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân, hoặc được dân ủy cho quyền hạn để quản lý, điều hành những hoạt động nhất định của đời sống xã hội và nhân dân sẽ thu lại quyền đó khi cán bộ không còn xứng đáng, hoặc không đáp ứng được sự tín nhiệm của dân. Vì vậy, bất kỳ việc gì cán bộ cũng phải hỏi ý kiến dân, học hỏi kinh nghiệm của dân, cùng dân bàn bạc, thống nhất kế hoạch, sau đó hướng dẫn, làm mẫu cho dân thực hành.

Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về công tác dân vận có giá trị hết sức to lớn đối sự nghiệp cách mạng của Người và những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Về lý luận: tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận là một di sản quan trọng, là chuẩn mực để mỗi chủ thể công tác dân vận học tập và làm theo. Di sản đó không chỉ góp phần làm phong phú thêm lý luận Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, mà còn là nền tảng tư tưởng để Đảng ta hoạch định chủ trương, đường lối và tiến hành công tác vận động quần chúng trong các thời kỳ cách mạng. Mặt khác, di sản đó còn là phương châm hành động, là mục tiêu phấn đấu của các chủ thể công tác dân vận hiện nay. Về thực tiễn: tư tưởng, đạo đức, phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng thức tỉnh tinh thần dân tộc, nâng cao giác ngộ cách mạng của các tầng lớp nhân dân và xây dựng, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào mục tiêu, lý tưởng của cách mạng. Tư tưởng, đạo đức, phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho các tầng lớp nhân dân tin Đảng, đi theo Đảng, trung thành với Đảng, tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân tộc - yếu tố quyết định bảo đảm cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Hơn nữa, tư tưởng, đạo đức, phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc thuộc địa đoàn kết gắn bó, tương trợ lẫn nhau trong đấu tranh cách mạng, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng thế giới. Đặc biệt, tư tưởng, đạo đức, phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền tảng cho mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam với các nước có chế độ chính trị khác nhau trên thế giới.

2. Một số yêu cầu, và giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của quân đội trong tình hình mới

Hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, cùng với những thuận lợi và thời cơ, các nước chậm phát triển trong đó có Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức gay gắt như: sự cạnh tranh lợi ích và nguy cơ xung đột giữa các quốc gia, dân tộc; nguy cơ ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu do quá trình sản xuất vật chất tạo ra... Bên cạnh đó, các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam đang triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo; các biểu hiện quan liêu, thiếu dân chủ và tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên để xuyên tạc, kích động nhân dân, gây mất ổn định chính trị, xã hội và phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do vậy, trong tình hình mới, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của của hệ thống chính trị, trong đó có Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết. Bởi lẽ, đây không chỉ là một chức năng của quân đội, mà còn là yếu tố bảo đảm cho quân đội có thể hoàn thành nhiệm vụ là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong tình hình mới, công tác dân vận của quân đội cần thực hiện tốt một số yêu cầu cụ thể đó là: tuyên truyền, vận động cán bộ, chiến sỹ và nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; tham gia xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở; góp phần đảm bảo giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tích cực giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo và các chính sách xã hội, củng cố, tăng cường tình đoàn kết quân dân, xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân; đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; phối hợp với ban dân vận của cấp ủy, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân cùng cấp và các cơ quan liên quan làm tốt công tác tham mưu với cấp ủy, chính quyền về công tác dân vận trên địa bàn đóng quân.

Thực hành công tác dân vận theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là cách tốt nhất để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của quân đội trong tình hình mới. Theo đó, cần tập trung làm tốt một số nội dung, giải pháp cơ bản sau đây.

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng trong quân đội đối với công tác dân vận. Đây vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ, vừa là một chức năng lãnh đạo của Đảng. Do vậy, các cấp ủy, tổ chức Đảng trong quân đội cần quán triệt sâu sắc các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương về công tác dân vận như: Nghị quyết số 8B-NQ/HNTW ngày 27/3/1990 của Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân; Quyết định số 290-QĐ/TW ngày 25/02/2010 của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị; Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013 về Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới; nhất là Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết số 49-NQ/QUTW ngày 26/01/2015 của Quân ủy Trung ương về “Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Quân đội trong tình hình mới". Mặt khác, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể, các cấp ủy đảng phải luôn có chủ trương, biện pháp lãnh đạo công tác dân vận trong các nghị quyết thường xuyên, định kỳ và nghị quyết chuyên đề khi cần.

Hai là, không ngừng nâng cao nhận thức về trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi quân nhân, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên và cán bộ chuyên trách công tác dân vận. Công tác tuyên truyền, giáo dục phải làm cho mỗi quân nhân có nhận thức đúng đắn về chức năng, nhiệm vụ của quân đội, trong đó có chức năng công tác. Kết hợp chặt chẽ giữa học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và cuộc vận động Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” trong quân đội. Kiên quyết đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong quân đội là một tấm gương mẫu mực được quần chúng tin yêu.

Ba là, thường xuyên kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách về công tác dân vận và chủ động đổi mới hình thức, phương pháp tiến hành công tác vận động quần chúng. Đây là nội dung, biện pháp rất quan trọng, trực tiếp quyết định đến chất lượng, hiệu quả công tác dân vận ở mỗi đơn vị trong toàn quân. Bởi vì, cán bộ chuyên trách về công tác dân vận không chỉ là người trực tiếp nắm tình hình, tham mưu cho cấp ủy và người chỉ huy các cấp về công tác dân vận, mà còn là người trực tiếp tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và giúp đỡ đơn vị trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật. Mặt khác, nội dung, hình thức, phương pháp là yếu tố quyết định chất lượng, hiệu quả công tác dân vận. Theo đó, phải thường xuyên kiện toàn đội ngũ cán bộ chuyên trách về công tác dân vận, bảo đảm đủ số lượng, có chất lượng tốt, có nguồn kế cận kịp thời. Kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo với bồi dưỡng tại chức về chuyên môn, nghiệp vụ công tác dân vận. Thường xuyên rút kinh nghiệm, sơ tổng kết, xây dựng và nhân rộng các điển hình “Dân vận khéo”. Mỗi cán bộ chuyên trách về công tác dân vận phải tiêu biểu về đạo đức cách mạng; luôn sâu sát thực tế cơ sở, nắm bắt đúng tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân; nắm chắc chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, có khả năng diễn đạt và năng lực thuyết phục người nghe; luôn thống nhất giữa nói và làm, gương mẫu đi đầu trong mọi việc; thực hiện đúng quy trình và chủ động đổi mới cách thức tiến hành công tác dân vận phù hợp với đặc điểm từng đơn vị, từng địa bàn đóng quân; có tri thức về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, có hiểu biết tiếng dân tộc, hiểu biết về tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, tập quán, lối sống của đồng bào các dân tộc trên địa bàn đóng quân./.

TS Nguyễn Hữu Lập


[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2011, t.1, tr.209.

[2] Hồ Chí Minh, Sđd, t.10, tr.453.

[3] Hồ Chí Minh, Sđd, t.15, tr.280.

[4] Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr.534.

[5] Hồ Chí Minh, Sđd, t.9, tr.258.

[6] Hồ Chí Minh,Sđd, t.2, tr.289.

[7]  Hồ Chí Minh, Sđd t.6, tr.233.

[8] Hồ Chí Minh, Sđd, t6, tr.232.

[9] Hồ Chí Minh, Sđd, t.6, tr.16.

[10] Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr.51.

[11] Hồ Chí Minh, Sđd, t.14, tr.161.

[12] Hồ Chí Minh, Sđd t.2, tr.283.

Gửi cho bạn bè

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi