Thứ Hai, 25/11/2024
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu: Những vấn đề đặt ra đối với kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam

 Lễ ký kết Hiệp định Thương mại tự do (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư (EVIPA)
 giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu

Cam kết EVFTA và các tác động dự kiến với nền kinh tế và doanh nghiệp

EVFTA là Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới có phạm vi và mức độ cam kết tự do hóa cao nhất mà Việt Nam tham gia tính tới thời điểm hiện tại. Trong số 13 FTA đã có hiệu lực của chúng ta, chỉ có CPTPP có thể so sánh với EVFTA từ các góc độ này. Mặc dù vậy, nếu xét về quy mô, EVFTA với đối tác EU - khu vực thuế quan bao gồm 27 nền kinh tế thành viên (nếu không tính Vương quốc Anh) chưa từng có FTA nào với Việt Nam - có thể xem là FTA thế hệ mới lớn nhất và tiềm năng nhất của Việt Nam.

Với tính chất như vậy, các cam kết EVFTA được cho là sẽ trở thành động lực có ý nghĩa đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung, hoạt động thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và EU nói riêng.

Về thuế quan, EVFTA được đánh giá là FTA mà đối tác (EU) có cam kết loại bỏ, cắt giảm thuế quan mạnh nhất và nhanh nhất cho Việt Nam. Với một nền kinh tế định hướng xuất khẩu như chúng ta, việc hơn 85% dòng hàng hóa xuất khẩu có thể tiếp cận thị trường có sức mua lớn thứ hai toàn cầu này với thuế ưu đãi 0% ngay từ 1/8/2020 này là điều rất có ý nghĩa. Hơn thế, trong bối cảnh xuất khẩu thời gian qua bị đình trệ, và cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu vào EU khi khu vực này bắt đầu mở cửa trở lại sau COVID-19 được dự báo là rất gay gắt, EVFTA thực sự là một xung lực mới cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Trong số nhóm sản phẩm được hưởng lợi ích sớm từ EVFTA có mặt nhiều sản phẩm chủ lực của Việt Nam như thủy sản (50% số dòng thuế thủy sản), cà phê, rau củ quả (100%), giày dép (37%), gỗ/đồ gỗ (83%), máy vi tính, điện tử, linh kiện (74%)…

Tất nhiên, theo chiều ngược lại, Việt Nam cũng sẽ phải cắt giảm và loại bỏ thuế quan cho hàng hóa EU nhập khẩu vào thị trường mình. Điều này chắc chắn sẽ khiến cho một số sản phẩm của chúng ta đứng trước áp lực cạnh tranh ngay trên sân nhà. Mặc dù vậy, theo cam kết, diễn tiến giảm thuế của Việt Nam chậm hơn khá nhiều so với EU, với chỉ khoảng 48,5% số dòng thuế được loại bỏ ngay. Nhóm này lại phần lớn là các sản phẩm mà Việt Nam có nhu cầu nhập khẩu phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh như máy móc, thiết bị (61% dòng thuế), dược phẩm (71%), nguyên phụ liệu dệt may da giày (80%), hóa chất (70%)... Số còn lại được cắt giảm thuế dần dần, với lộ trình dài hơn phía EU, đối đa lên tới 10 năm. Các sản phẩm mà sức cạnh tranh của Việt Nam còn yếu đều thuộc nhóm này (các loại thịt, ô tô, xe máy, linh kiện, xăng dầu…). Vì vậy, theo dự báo, mặc dù sẽ khó khăn, nhưng các ngành vẫn có khoảng thời gian nhất định để điều chỉnh, và trong một chừng mực nhất định, sức ép cạnh tranh hợp lý cũng là động lực để các ngành còn yếu của chúng ta lớn nhanh hơn, bền vững hơn.

Cùng với các cam kết thuế quan, EVFTA cũng đặt ra các nguyên tắc để minh bạch hóa các hàng rào phi thuế, các hàng rào kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm, cải thiện quy trình hải quan, tạo thuận lợi thương mại. Đây được cho là những yếu tố quan trọng đẩy nhanh quy trình xuất nhập khẩu, qua đó tăng lưu lượng thương mại giữa hai bên.

Theo một nghiên cứu vừa được công bố tháng 5/2020(1). Ngân hàng Thế giới đánh giá với EVFTA, xuất khẩu của Việt Nam vào năm 2030 có thể tăng thêm 12,2%, nhập khẩu tăng thêm 14,1% so với kịch bản không có Hiệp định. Nếu Việt Nam có biện pháp kích thích năng suất, con số dự báo còn cao hơn, cả xuất và nhập khẩu đều có thể tăng thêm xấp xỉ 18%.

Về thương mại dịch vụ và đầu tư, EVFTA có cam kết mở cửa một số dịch vụ rộng hơn đáng kể so với mức trong WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực dịch vụ phục vụ sản xuất như logistics, tài chính, viễn thông. Cạnh tranh trong nhiều lĩnh vực dịch vụ vốn là lợi thế của EU được dự báo có thể giúp cho hiện trạng thị trường Việt Nam sôi động hơn, doanh nghiệp và người tiêu dùng sử dụng dịch vụ được hưởng lợi.

Các cam kết thể chế như các nguyên tắc về cạnh tranh trên thị trường, thương mại điện tử, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường, trách nhiệm xã hội… trong EVFTA được cho là phản ánh sát với các xu hướng kinh tế mới và có thể giúp tạo một thị trường minh bạch, cạnh tranh, linh hoạt với các xu thế kinh tế mới dưới tác động của công nghệ 4.0, bảo đảm phát triển bền vững và mang lại lợi ích cho các nhóm khác nhau.

Tác động cộng gộp của tất cả các yếu tố này lên nền kinh tế được đánh giá là tích cực. Cũng theo nghiên cứu nói trên, với EVFTA, GDP của Việt Nam dự báo có thể tăng thêm 2,4%, thêm từ 100.000 đến 800.000 người thoát nghèo vào năm 2030 so với kịch bản không có EVFTA. Thậm chí ở kịch bản tốt hơn, nếu Việt Nam có biện pháp kích thích tăng năng suất, con số dự báo còn tích cực hơn, với mức tăng thêm của GDP là 6,8%.

Sự tăng trưởng về lưu lượng thương mại và đầu tư giữa Việt Nam với EU nhờ vào EVFTA cũng được cho là yếu tố thúc đẩy tăng cường các chuỗi giá trị toàn cầu then chốt của Việt Nam. Tái cơ cấu sản xuất và thị trường cũng được cho là sẽ cải thiện dưới tác động cộng hưởng từ EVFTA, các FTA và nỗ lực cải cách nội bộ của Việt Nam.

Cuối cùng, những lợi ích kỳ vọng và sức ép thực thi các cam kết EVFTA, cùng với CPTPP, có thể là động lực khích lệ Việt Nam đẩy mạnh cải cách trong nước, không chỉ là cải thiện quy định pháp luật về thương mại – đầu tư mà còn là những thay đổi tích cực về các cơ chế quản lý kinh tế, các thiết chế, bộ máy thực thi và cách thức quản trị dựa trên sự minh bạch, cân bằng và bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế.

Yêu cầu đặt ra từ EVFTA đối với nền kinh tế và các doanh nghiệp

Những lợi ích kỳ vọng từ EVFTA là rất đáng kể. Đó có thể là những lợi ích có thể định lượng qua các con số như tăng trưởng GDP, xuất nhập khẩu, số lượng người thoát nghèo, mức độ cải thiện thu nhập… Đó cũng có thể là những lợi ích không dễ đong đếm nhưng có thể làm thay đổi bộ mặt và sức hấp dẫn của môi trường kinh doanh, cạnh tranh ở Việt Nam. Trong bối cảnh khó khăn sau COVID-19, việc có thể hiện thực hóa những lợi ích này lại càng ý nghĩa hơn với từng doanh nghiệp cũng như cả nền kinh tế.

Tuy nhiên, hầu như tất cả các lợi ích từ EVFTA đều là có điều kiện. Rất ít các lợi ích có thể thụ hưởng một cách tự nhiên mà không cần những thay đổi, điều chỉnh nào. EVFTA đòi hỏi chúng ta phải hành động, từ cấp doanh nghiệp, ngành và cả nền kinh tế, từ những công việc cụ thể ở cấp vi mô của doanh nghiệp đến những vấn đề cấp vĩ mô của các ngành kinh tế và cả quản trị Nhà nước.

Có thể thấy rõ điều này qua việc xem xét về các yêu cầu đặt ra để tận dụng ưu đãi thuế quan EVFTA, một phần trong rất nhiều các yêu cầu để có thể hiện thực hóa các cơ hội kinh tế từ Hiệp định này.

Cụ thể, để hàng hóa Việt Nam xuất khẩu đi EU có thể hưởng ưu đãi thuế quan theo EVFTA, giá trị phần hàng hóa có xuất xứ Việt Nam và/hoặc EU phải ở mức đủ để đáp ứng được yêu cầu xuất xứ. Bài toán đặt ra đơn giản, nhưng lời giải có thể đụng tới rất nhiều vấn đề, từ cả góc độ vi mô của doanh nghiệp và vĩ mô của quản lý Nhà nước.

Từ góc độ vi mô, mỗi doanh nghiệp đều sẽ phải có sự chủ động tìm hiểu quy tắc xuất xứ cụ thể đối với các dòng sản phẩm mình quan tâm, nghiên cứu và thiết lập nguồn cung và/hoặc công nghệ sản xuất để tăng tỷ lệ giá trị nội khối trong sản phẩm cuối cùng, thực hiện bài toán lợi ích (giữa lợi thế cạnh tranh từ số thuế tiết kiệm được với khoản đầu tư thay đổi sản xuất cho phù hợp), cân nhắc thị trường và xây dựng chiến lược kinh doanh tương ứng.

Trong một chừng mực nhất định, tất cả những điều này đòi hỏi doanh nghiệp không chỉ thay đổi những thông lệ kinh doanh vốn đã quen thuộc (như điều chỉnh nguồn cung nguyên liệu, đổi mới công nghệ sản xuất,…) mà xa hơn, có thể phải thay đổi cả phương thức kinh doanh, thậm chí là tầm nhìn và chiến lược kinh doanh trong dài hạn.

Từ góc độ vĩ mô, câu chuyện xuất xứ hàng hóa FTA đòi hỏi phải có những thay đổi căn cơ về vai trò ngành công nghiệp hỗ trợ trong nền kinh tế. Điều này thực tế lại chỉ có thể làm được nếu Nhà nước có chiến lược thống nhất và hành động hiệu quả trong xây dựng các ngành công nghiệp hỗ trợ. Chiến lược này cần sự kết hợp nhuần nhuyễn và liên hoàn của nhiều biện pháp, chính sách khác nhau về đất đai, môi trường, thuế, dịch vụ hạ tầng,... Đồng thời lại cần sự chuyển động của cả một bộ máy từ trung ương tới địa phương trong triển khai chiến lược. Thậm chí, có thể còn cần cả một chiến dịch thay đổi nhận thức của các cán bộ thừa hành.

Xa hơn nữa, vấn đề xuất xứ còn thúc đẩy chúng ta nghĩ tới một câu hỏi khác: Việt Nam cần làm gì để không chỉ dừng lại ở khâu gia công “thô”, với giá trị thực thu được rất ít, mà phải tham gia sâu hơn vào các khâu “tinh” hơn, với giá trị gia tăng cao hơn gấp nhiều lần? Câu trả lời chắc chắn phụ thuộc vào các chính sách chuyển dịch cơ cấu sản xuất, khuyến khích và thúc đẩy việc tham gia vào các nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị, can dự sâu hơn vào các chuỗi sản xuất toàn cầu.

Trên thực tế, bài toán đặt ra với doanh nghiệp và các cơ quan quản lý này vốn được đề cập lâu nay, nhất là kể từ khi Việt Nam tham gia vào các FTA. Tuy nhiên, với EVFTA, những lợi ích lớn kỳ vọng từ Hiệp định này đặt chúng ta trước đòi hỏi cấp thiết hơn lúc nào hết để giải bài toán này.

Chỉ với mục tiêu tận dụng ưu đãi thuế quan EVFTA, những yêu cầu đặt ra với doanh nghiệp, với cơ quan quản lý Nhà nước đã là rất phức tạp. Có thể thấy nếu xét trong tổng thể, EVFTA đang và sẽ đặt ra những thách thức lớn đến thế nào cho nền kinh tế, cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan hoạch định, thực thi chính sách của chúng ta.

Trong một chừng mực nhất định, có thể liệt kê một số điểm mấu chốt mà doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước cần phải làm để có thể hiện thực hóa các cơ hội, lợi ích kỳ vọng từ EVFTA như sau:

Đối với doanh nghiệp, từ khóa là Chủ động - Chuyên nghiệp - Cạnh tranh

Doanh nghiệp cần có tâm thế kinh doanh chủ động. Sự chủ động này phải được thực hiện ở tất cả các khâu của hoạt động kinh doanh. Từ chủ động tìm hiểu các cơ hội sẵn có (từ các cam kết FTA, từ bối cảnh nhu cầu, bối cảnh thị trường) đến chủ động sáng tạo ra cơ hội (thị trường ngách, sáng tạo sản phẩm mới/kích thích các nhu cầu mới). Từ chủ động thay đổi để bắt kịp xu hướng (công nghệ, phương thức kinh doanh, đối tác kinh doanh) đến chủ động chuẩn bị để ứng phó với các diễn biến/thách thức kinh doanh có thể xảy ra.

Doanh nghiệp cũng cần phải chuyên nghiệp, bài bản trong từng hoạt động kinh doanh. Từ công tác xúc tiến thương mại (quảng bá sản phẩm, thương hiệu, chào bán hàng…) đến việc đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng, an toàn thực phẩm. Từ quản lý lao động đến quản trị hoạt động của doanh nghiệp.

Và tất nhiên, doanh nghiệp luôn phải nỗ lực để nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình. Cạnh tranh vốn luôn là đòi hỏi thường xuyên của thị trường. Hội nhập nói chung và EVFTA nói riêng khiến cạnh tranh trở nên phức tạp, đồng thời mang tới động lực để doanh nghiệp đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh.

Ngoài ra, trong hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh tranh cần song hành với hợp tác, liên kết. Sự liên kết chặt chẽ trong nhóm doanh nghiệp, hiệp hội, ngành là chìa khóa để tạo nên sức mạnh cộng hưởng cho các hoạt động mà vốn từng doanh nghiệp đơn lẻ sẽ khó có thể thực hiện hiệu quả hoặc là rất lãng phí nguồn lực. Trên thực tế, sự liên kết và phối hợp là đặc biệt hiệu quả với các công việc như nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại/thương hiệu sản phẩm Việt Nam. Hợp tác cũng là mấu chốt kể cả trong những hợp đồng kinh doanh cụ thể như sản xuất đáp ứng các đơn hàng lớn; mua chung nguyên vật liệu để tạo thế đàm phán tốt hơn; sản xuất theo chuỗi (mà mỗi doanh nghiệp chuyên sâu ở từng khâu mà mình có thế mạnh); phối hợp để hành động chung trong bảo vệ các lợi ích của doanh nghiệp Việt Nam ở EU (ví dụ trong các vụ kiện phòng vệ thương mại, trong các quy trình thủ tục hành chính có vướng mắc,…).

Đối với Nhà nước, Thực tế - Thực tâm - Thống nhất là đòi hỏi cấp bách

Khá nhiều các yêu cầu mà quá trình hội nhập và thực thi các FTA đặt ra với nền kinh tế nói chung và Nhà nước nói riêng đã được nhận diện rõ ràng. EVFTA chỉ làm đậm thêm, sâu sắc thêm các yêu cầu này, và đưa ra nhiều động lực cũng như sức ép hơn để hành động.

Tuy nhiên, dù đã nhận diện được vấn đề, hành động của chúng ta vẫn chưa hiệu quả và còn nhiều bất cập. Nguyên nhân chủ yếu được cho nằm ở chỗ: (i) Các biện pháp được thiết kế chưa bám sát/đi lên từ thực tiễn, vì vậy khó giải quyết vấn đề của thực tiễn. (ii) Biện pháp có thể là đúng, nhưng người triển khai, cơ chế triển khai lại hời hợt, không thực sự chuẩn mực, có thể là vì vụ lợi, vì thói quen hoặc vì lý do nào khác. (iii) Các biện pháp được thực hiện không đồng đều, mỗi cấp hiểu khác nhau, mỗi địa phương đơn vị áp dụng khác nhau.

Do đó, lời giải cho bài toán đặt ra với Nhà nước từ góc độ này tương đối rõ ràng, đơn giản. Đó là các giải pháp phải xuất phát từ yêu cầu thực tế, phải được thiết kế để giải quyết các vấn đề cụ thể, có thật. Giải pháp có rồi thì việc thực hiện phải thực chất, thực tâm và thống nhất.

Trên thực tế, để làm tất cả những điều này không khó, nếu nhìn từ việc chúng không đòi hỏi nguồn lực hay điều kiện bổ sung nào quá phức tạp. Nhưng lại hoàn toàn không dễ, bởi chúng phụ thuộc không chỉ vào cơ chế giám sát mà còn là nhận thức và quyết tâm của người thực hiện.

Chúng ta đang đứng trước ngưỡng cửa của FTA có quy mô lớn nhất, hứa hẹn nhất từ trước tới nay. Vấn đề còn lại là nền kinh tế, Nhà nước và doanh nghiệp có đủ quyết tâm và nỗ lực đáp ứng được các yêu cầu đặt ra để hưởng trái ngọt từ FTA này./.

---------------------------

1. Báo cáo “Việt Nam: Tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế và thực thi EVFTA”, Ngân hàng Thế giới, 5/2020.

TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

 

Gửi cho bạn bè

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi