1. Vai trò của chính phủ điện tử
Chính phủ điện tử (e-government) là ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông để các cơ quan chính phủ hoạt động hiệu lực, hiệu quả và minh bạch, cung cấp thông tin, dịch vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp và các tổ chức; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện quyền dân chủ trong việc tham gia quản lý nhà nước. Tuy nhiên, chính phủ điện tử không đơn thuần là máy tính, mạng internet mà là sự đổi mới toàn diện các quan hệ, nguồn lực, quy trình, phương thức và nội dung hoạt động của chính quyền trung ương và địa phương.
Khi đề cập đến chính phủ điện tử là nói tới hoạt động của Chính phủ với các đặc trưng sau:
Thứ nhất, xóa bỏ khoảng cách giữa chính phủ và người dân, đưa chính phủ tới gần dân và đưa dân tới gần chính phủ;
Thứ hai, làm trong sạch các hoạt động của Chính phủ, chống tham nhũng, quan liêu, độc quyền;
Thứ ba, tăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động của chính phủ trong quản lý, điều hành và phục vụ nhân dân, thực hiện cải cách hành chính và nâng cao chất lượng dịch vụ công.
Lợi ích của chính phủ điện tử là đáp ứng mọi nhu cầu của công dân bằng việc nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy chính quyền trung ương và địa phương. Chính phủ điện tử đem lại sự thuận tiện, cung cấp các dịch vụ công một cách hiệu quả và kịp thời cho người dân, doanh nghiệp. Đối với người dân và doanh nghiệp, chính phủ điện tử là sự đơn giản hóa các thủ tục và tăng tính hiệu quả của quá trình xử lý công việc. Chính phủ điện tử sẽ hỗ trợ tăng cường quan hệ giữa các cơ quan trong tổ chức bộ máy hành chính nhà nước nhằm đảm bảo đưa ra các quyết định một cách chính xác và kịp thời. Có bốn dạng giao dịch chính phủ điện tử: Chính phủ với công dân (G2C); Chính phủ với doanh nghiệp (G2B); Chính phủ với Chính phủ (G2G); Chính phủ với công chức, viên chức (G2E).
2. Những vấn đề thực tiễn của chính phủ điện tử
Nhà nước ta luôn quan tâm, coi trọng phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước, đây là động lực thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năm 2014, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế với quan điểm “Ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực, song có trọng tâm, trọng điểm. Ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính, cung cấp dịch vụ công, trước hết là trong lĩnh vực liên quan tới doanh nghiệp, người dân như giáo dục, y tế, giao thông, nông nghiệp…”. Nghị quyết đã xác định mục tiêu cụ thể đến năm 2020 “triển khai có hiệu quả chương trình cải cách hành chính, gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng chính phủ điện tử và cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở mức độ cao và trong nhiều lĩnh vực”.
Năm 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 về chính phủ điện tử nhằm “Đẩy mạnh phát triển chính phủ điện tử, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Nâng vị trí của Việt Nam về chính phủ điện tử theo xếp hạng của Liên hợp quốc. Công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước trên môi trường mạng”.
Các bộ, ngành, địa phương đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả quan trọng làm nền tảng cho việc triển khai xây dựng chính phủ điện tử. Hành lang pháp lý trong ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính phủ điện tử đã được thiết lập. Một số cơ sở dữ liệu mang tính chất nền tảng thông tin đang được xây dựng và đưa vào sử dụng như: cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp; cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm; cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia.
Các cơ quan nhà nước đã cung cấp một số dịch vụ công trực tuyến thiết yếu cho doanh nghiệp và người dân như: đăng ký doanh nghiệp, kê khai thuế, nộp thuế, hải quan điện tử, bảo hiểm xã hội… Một số bộ, ngành đã xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng. Tại một số địa phương, hệ thống thông tin một cửa điện tử được đưa vào vận hành, từng bước nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm của đội ngũ công chức, viên chức. Chất lượng nhân lực về công nghệ thông tin từng bước được quan tâm.
Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước.
Theo đó, dịch vụ công trực tuyến có 4 mức độ:
- Dịch vụ công trực tuyến mức độ 1: là dịch vụ bảo đảm cung cấp đầy đủ các thông tin về thủ tục hành chính và các văn bản có liên quan quy định về thủ tục hành chính đó;
- Dịch vụ công trực tuyến mức độ 2: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 1 và cho phép người sử dụng tải về các mẫu văn bản và khai báo để hoàn thiện hồ sơ theo yêu cầu. Hồ sơ sau khi hoàn thiện được gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ;
- Dịch vụ công trực tuyến mức độ 3: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 và cho phép người sử dụng điền và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ. Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng. Việc thanh toán lệ phí (nếu có) và nhận kết quả được thực hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ;
- Dịch vụ công trực tuyến mức độ 4: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và cho phép người sử dụng thanh toán lệ phí (nếu có) được thực hiện trực tuyến. Việc trả kết quả có thể được thực hiện trực tuyến, gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến người sử dụng.
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 28/8/2018 thành lập Ủy ban Quốc gia về chính phủ điện tử, theo đó, Chủ tịch Ủy ban là Thủ tướng Chính phủ. Ủy ban có chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về chủ trương, chiến lược, cơ chế, chính sách tạo môi trường pháp lý thúc đẩy xây dựng, phát triển chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số; tạo thuận lợi cho việc triển khai cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tại Việt Nam.
Phát triển ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính phủ điện tử thời gian qua đã đem lại một số kết quả nhất định:
Thứ nhất, về ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước(1), hạ tầng công nghệ thông tin, có 17 bộ, cơ quan ngang bộ và 49 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã triển khai mạng diện rộng WAN, trong đó đã kết nối tới trên 80% số đơn vị thuộc, trực thuộc các bộ, ngành và trên 75% các sở, ngành, quận/huyện của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; tỷ lệ cán bộ, công chức được trang bị máy tính phục vụ công việc đạt 90,95% ở Trung ương, 97,14% ở các sở, ban, ngành cấp tỉnh và 90,87% ở Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Thứ hai, hệ thống phần mềm quản lý văn bản và điều hành đã được triển khai tại 100% các bộ, ngành, địa phương. Có 18 bộ, ngành và 46 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai hệ thống quản lý văn bản và điều hành dùng chung giúp cho việc gửi, nhận văn bản điện tử liên thông giữa các cơ quan, đơn vị. 15 bộ, ngành và 44 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã triển khai sử dụng chữ ký số chuyên dùng và tích hợp với hệ thống quản lý văn bản, điều hành. Các bộ, ngành có 98,8% cán bộ, công chức được cấp và thường xuyên sử dụng hộp thư điện tử; đối với các tỉnh, thành phố tỷ lệ này trên 82%.
Thứ ba, về xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia làm nền tảng cho xây dựng chính phủ điện tử: đã triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký kinh doanh, thủ tục hành chính; đang triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, về đất đai, về bảo hiểm, về tài chính. Bên cạnh đó, các bộ, ngành, địa phương tăng cường xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên ngành để phục vụ công tác quản lý của mình.
Trong những năm qua, dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 tăng về số lượng cung cấp dịch vụ. Năm 2017, số dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 của các bộ, ngành tăng gần 600 dịch vụ và các tỉnh, thành phố tăng hơn 11.000 dịch vụ so với năm 2016.
Tuy nhiên, việc triển khai chính phủ điện tử chưa đạt được như mong muốn. Vị trí của Việt Nam trong bảng xếp hạng Chỉ số phát triển chính phủ điện tử của Liên hợp quốc vẫn ở mức trung bình, năm 2017 xếp thứ 88/193 quốc gia và lãnh thổ được đánh giá. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam chỉ được xếp ở vị trí thứ 6.
Theo Báo cáo về mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất trong tương lai do Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF)(2) công bố, trong tổng số 100 quốc gia được đánh giá, Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia chưa sẵn sàng cho cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các chỉ số liên quan đến đổi mới sáng tạo còn ở mức thấp (Việt Nam nằm trong nhóm cuối cùng - nhóm sơ khai).
Kết quả triển khai các nhiệm vụ về chính phủ điện tử còn chậm và không ít các cơ quan, tổ chức thực hiện mang tính hình thức với nhiều hạn chế như:
- Việc xây dựng, triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia, hạ tầng công nghệ thông tin rất chậm so với tiến độ;
- Nhiều hệ thống thông tin đã triển khai chưa bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, mức độ tin cậy trong giao dịch điện tử thấp;
- Các hệ thống thông tin dữ liệu còn cục bộ, chưa có kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin;
- Chất lượng dữ liệu và thông tin chưa được cập nhật kịp thời, chính xác;
- Việc giải quyết thủ tục hành chính và xử lý hồ sơ công việc còn mang tính thủ công, giấy tờ gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong triển khai các dự án;
- Việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến còn chạy theo số lượng trong khi tỷ lệ hồ sơ thực hiện dịch vụ công trực tuyến rất thấp.
Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do:
- Thiếu khung pháp lý đồng bộ về xây dựng chính phủ điện tử, thiếu quy định cụ thể về xác thực cá nhân, tổ chức trong các giao dịch điện tử cũng như các quy định pháp lý về văn thư, lưu trữ điện tử, giá trị pháp lý của văn bản điện tử trong giao dịch hành chính và thanh toán. Cơ chế bảo đảm thực thi nhiệm vụ chưa đủ mạnh. Các cấp, ngành chưa xác định rõ lộ trình và các nhiệm vụ cụ thể để triển khai, còn thiếu gắn kết giữa ứng dụng công nghệ thông tin với cải cách thủ tục hành chính và đổi mới lề lối, phương thức làm việc, nhất là trong quan hệ với người dân, doanh nghiệp;
- Việc bảo đảm an toàn, an ninh cho các hệ thống thông tin của các cơ quan nhà nước chưa được quan tâm đúng mức;
- Chưa phát huy vai trò của người đứng đầu trong chỉ đạo thực hiện;
- Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan hành chính nhà nước cũng như quy định về cơ chế tích hợp, chia sẻ dữ liệu còn thiếu; nhiều nơi còn có thói quen lưu giữ dữ liệu riêng;
- Chưa phát huy tối đa sự tham gia của khu vực tư nhân trong xây dựng chính phủ điện tử, thiếu cơ chế tài chính và đầu tư phù hợp với đặc thù dự án công nghệ thông tin.
3. Một số giải pháp phát triển chính phủ điện tử trong thời gian tới
3.1 Những giải pháp cơ bản
Thứ nhất, tập trung xây dựng chiến lược định hướng phát triển chính phủ điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước, hướng tới hoạt động hiệu lực, hiệu quả và minh bạch, cung cấp thông tin, dịch vụ tốt cho người dân, doanh nghiệp và các tổ chức; có những giải pháp phù hợp với lộ trình rõ ràng là cơ sở tốt cho việc đầu tư nhân lực và cơ sở hạ tầng đáp ứng được những yêu cầu của sự phát triển.
Thứ hai, tập trung phát triển nguồn nhân lực liên quan phục vụ cho triển khai chính phủ điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước. Có ba nhóm cần chú trọng phát triển là: đội ngũ trí thức; các doanh nhân; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ ba, từng bước xây dựng hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển của chính phủ điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước, đồng thời xây dựng, phát triển văn hóa công vụ phù hợp với hệ thống công vụ trong phát triển khoa học công nghệ thông tin trong kỷ nguyên số.
Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế về phát triển chính phủ điện tử và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm thực tiễn cũng như lý thuyết về phát triển chính phủ điện tử và ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước áp dụng những kinh nghiệm của các nước tiên tiến vào hoạt động quản lý nhà nước.
3.2 Một số biện pháp cụ thể
Một là, rà soát, sắp xếp lại và huy động các nguồn lực triển khai những nhiệm vụ ưu tiên phát triển chính phủ điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước, điều chỉnh cơ chế đầu tư đặc thù cho công nghệ thông tin, tăng cường xã hội hóa để phát huy hiệu quả hợp tác công - tư. Tổ chức đào tạo, tập huấn, sử dụng các hệ thống thông tin, sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 cho người dân, doanh nghiệp. Nâng cao nhận thức về chính phủ điện tử, kinh tế số, hạ tầng số thông qua việc triển khai chương trình truyền thông để nâng cao nhận thức, thay đổi thói quen hành vi của cán bộ, công chức, viên chức, người dân, tổ chức.
Hai là, xây dựng các cơ sở dữ liệu nền tảng quốc gia, như cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai...; chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin ở Trung ương và địa phương; hệ thống liên thông gửi, nhận văn bản điện tử; liên thông giữa các hệ thống chứng thực chữ ký số chuyên dùng của Chính phủ và chữ ký số công cộng; Cổng thanh toán quốc gia…
Ba là, xây dựng, hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc triển khai, xây dựng phát triển chính phủ điện tử. Nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật chính phủ điện tử, tạo hành lang pháp lý dựa trên dữ liệu mở, ứng dụng các công nghệ mới hướng tới nền kinh tế số, xã hội số.
Bốn là, xây dựng phát triển các hệ thống ứng dụng phục vụ người dân, doanh nghiệp và phục vụ hoạt động quản lý nhà nước. Các bộ, ngành, địa phương cần tích cực trong việc xây dựng Cổng dịch vụ công quốc gia và triển khai hệ thống thông tin một cửa điện tử kết nối.
Năm là, phát huy vai trò người đứng đầu, nâng cao trách nhiệm, hiệu quả thực thi công vụ. Các nhiệm vụ triển khai chính phủ điện tử sẽ được đánh giá gắn liền với trách nhiệm cá nhân người đứng đầu từng bộ, ngành, địa phương và được đo lường qua bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả, đo lường chất lượng kết quả xây dựng chính phủ điện tử để bảo đảm tính chính xác và công bằng./.
Nguồn: tcnn.vn/ Ngô Thành Can