Thiếu vi chất dinh dưỡng (i-ốt, vi-ta-min A, sắt, kẽm…) được gọi là "nạn đói tiềm ẩn" và để lại những hậu quả khá nghiêm trọng không chỉ đối với sự phát triển của trẻ mà suốt quá trình trưởng thành. Ngăn chặn được tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng (VCDD) sẽ góp phần làm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em, giúp phát triển tầm vóc và trí tuệ của người Việt Nam.
Các nghiên cứu cho thấy thiếu VCDD có thể dẫn đến mù lòa, tổn thương não, thai chết lưu, tăng nguy cơ dị tật ống thần kinh, tăng nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng và chết ở phụ nữ mang thai và trẻ nhỏ, giảm năng suất lao động ở người trưởng thành… Thiếu VCDD ảnh hưởng bất lợi đến sự phát triển cả về thể chất và trí tuệ, như thiếu sắt và i-ốt làm giảm chỉ số thông minh (IQ) ở trẻ em từ 10 đến 15 điểm.
Tại Việt Nam, việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng cho người dân đã đạt nhiều kết quả quan trọng, như tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em giảm nhanh và bền vững; thanh toán được tình trạng mù lòa do thiếu vi-ta-min A, thiếu vi-ta-min A huyết thanh; thiếu máu do thiếu sắt và thiếu các VCDD khác ngày càng được cải thiện… Tuy nhiên, hiện nay tình trạng thiếu vi-ta-min A, thiếu máu do thiếu sắt và thiếu kẽm vẫn ở mức ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe cộng đồng. Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng (Bộ Y tế), tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em dưới năm tuổi ở Việt Nam là 27,8%, ở phụ nữ có thai là 32,8%; tỷ lệ thiếu vi-ta-min A tiền lâm sàng ở trẻ em dưới năm tuổi là 13% (tương đương gần một triệu trẻ); tỷ lệ thiếu kẽm ở trẻ em dưới năm tuổi là 69,4% và ở phụ nữ có thai là 80,3%...
Việc thiếu các VCDD đã góp phần làm cho tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi (chiều cao theo tuổi) ở trẻ em dưới năm tuổi tính chung cả nước vẫn ở mức cao là 24,3% và có sự chênh lệch nhiều giữa các vùng, nhất là vùng miền núi và nông thôn với thành phố, đồng bằng. Ðáng chú ý, tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi và thiếu VCDD là những nguyên nhân chính dẫn tới chiều cao ở thanh niên Việt Nam mới đạt 1,64m (đối với nam) và 1,55m (đối với nữ), thấp hơn các nước phát triển và trong khu vực ASEAN thì tương đương với các nước In-đô-nê-xi-a, Phi-li-pin, còn thấp hơn so với Ma-lai-xi-a, Thái-lan. Ngoài ra, thiếu VCDD còn ảnh hưởng xấu tới sức khỏe, tới sự phát triển thể lực, tầm vóc, trí tuệ, cản trở sự tăng trưởng và phát triển toàn diện của trẻ em và năng suất lao động của người lớn.
Nguyên nhân của tình trạng thiếu VCDD là do khẩu phần ăn của người dân không bảo đảm cung cấp đủ các VCDD quan trọng cho nhu cầu cơ thể, nhất là trong một số giai đoạn quan trọng như phụ nữ đang mang thai, cho con bú, trẻ em đang tuổi lớn. Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng, khẩu phần ăn của người dân Việt Nam hầu hết không đáp ứng đủ 100% nhu cầu về các vi-ta-min và chất khoáng. Bên cạnh đó, VCDD từ nguồn thức ăn động vật có giá trị sinh học cao, cơ thể dễ hấp thu và sử dụng hơn thì đều có giá thành cao, đã làm giảm sự tiếp cận thường xuyên của người dân nhất là người dân ở các vùng khó khăn.
Việc triển khai đồng bộ các giải pháp phòng, chống thiếu VCDD là cần thiết nhằm ngăn chặn "nạn đói tiềm ẩn". Các giải pháp cụ thể trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cần được thực hiện nghiêm túc và hiệu quả. Theo đó, tổ chức uống bổ sung VCDD là giải pháp ngắn hạn nhưng rất quan trọng để giúp cải thiện được ngay tình trạng thiếu VCDD. Tăng cường các VCDD (i-ốt, sắt, kẽm, vi-ta-min A) vào thực phẩm trong đó các thực phẩm như: muối, nước mắm, nước tương (xì dầu), hạt nêm, dầu ăn, bột mì… là một giải pháp trung hạn có tính ưu việt cao do có sự tham gia của cả nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Trong khi đó, đa dạng hóa bữa ăn, sử dụng nhiều loại thực phẩm giàu VCDD trong bữa ăn hằng ngày là giải pháp tự nhiên nhất nhằm cung cấp đủ VCDD cho nhu cầu của cơ thể. Ðây cũng là giải pháp chiến lược dài hạn cần phấn đấu đạt được và duy trì bền vững. Sử dụng đầy đủ các loại thực phẩm, cân đối khẩu phần ăn, chú ý các thực phẩm nguồn gốc động vật có nhiều VCDD có giá trị sinh học cao. Bên cạnh đó, chương trình giáo dục dinh dưỡng nhằm nâng cao nhận thức của người dân về dinh dưỡng hợp lý và phòng, chống thiếu VCDD được triển khai thường xuyên và đẩy mạnh thông qua các hoạt động dinh dưỡng được Chính phủ phê duyệt như Chiến lược Dinh dưỡng quốc gia 2010-2020.
Để phòng, chống thiếu VCDD cho trẻ nhỏ, các chuyên gia dinh dưỡng khuyến nghị trước tiên cần quan tâm chăm sóc dinh dưỡng ngay từ tuổi vị thành niên, nhất là giai đoạn mới kết hôn, chuẩn bị làm mẹ. Thực hiện dinh dưỡng hợp lý trong 1.000 ngày vàng (đầu đời) tức là từ khi bà mẹ bắt đầu mang thai đến khi trẻ hai tuổi đóng vai trò hết sức quan trọng. Bảo đảm dinh dưỡng cho phụ nữ trong thời gian mang thai để giúp thai nhi phát triển tốt và bà mẹ có đủ dự trữ các chất dinh dưỡng để nuôi con sau này. Mặt khác, việc bổ sung viên sắt trong thời kỳ mang thai và sau khi sinh là rất cần thiết để phòng, chống thiếu máu cho cả mẹ và con. Bà mẹ trong vòng một tháng đầu sau khi sinh cũng cần được uống vi-ta-min A liều cao và cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong sáu tháng đầu để phòng, chống thiếu vi-ta-min A. Tiếp tục cho trẻ bú sữa mẹ đến 24 tháng, đa dạng hóa bữa ăn, thực hiện vệ sinh ăn uống, vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, phòng, chống nhiễm giun, phòng, chống các bệnh nhiễm khuẩn như tiêu chảy, nhiễm khuẩn đường hô hấp cũng rất quan trọng vì nó liên quan đến tình trạng dinh dưỡng nói chung và thiếu vi chất của trẻ nhỏ nói riêng.
Hoàng Phong