Tỉnh Quảng Trị có tuyến biên giới đất liền giáp với 2 tỉnh Salavan và Savannakhet, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào có chiều dài 206 km. Do yếu tố lịch sử để lại nên nhân dân hai bên biên giới có mối quan hệ thân tộc, dân tộc gắn bó mật thiết từ lâu đời.
Để tập hợp, phát huy thế mạnh của tình đoàn kết gắn bó giữa nhân dân hai bên biên giới vào sự nghiệp quản lý và bảo vệ biên giới, Bộ đội Biên phòng Quảng Trị đã tiến hành khảo sát và tham mưu cho Tỉnh ủy Quảng Trị cho phép thực hiện mô hình “Kết nghĩa bản- bản hai bên biên giới”, nhằm kết nối người dân ở các thôn, bản hai bên biên giới tăng cường đoàn kết, tạo nên sức mạnh tổng hợp cùng chung sức xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị và phát triển.
|
Bộ đội Biên phòng Quảng Trị bàn giao “Nhà hữu nghị” cho dân bản La Lay A Sói |
Ngày 28/4/2005, bản Ka Tăng, thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) và bản Đensavẳn, huyện Sê Pôn, tỉnh Savannakhet (Lào) đã tổ chức kết nghĩa điểm, với các nội dung được ký kết như: Cùng nhau bảo vệ đường biên, cột mốc và dấu hiệu vành đai biên giới, không làm hư hỏng, xê dịch cột mốc biên giới, dấu hiệu đường biên giới, biển báo khu vực biên giới; chấp hành nghiêm việc qua lại biên giới, không xâm canh xâm cư; không đốt nương làm rẫy ở khu vực biên giới; không lấy vợ lấy chồng trái phép hai bên biên giới; không tiếp tay hoặc che giấu, đưa đón người vượt biên trái phép... Từ mô hình điểm này, phong trào “Kết nghĩa bản- bản hai bên biên giới” đã phát triển sâu rộng dọc các bản hai bên biên giới và đã được cấp ủy, chính quyền, nhân dân địa phương hai bên biên giới đồng tình ủng hộ .
Đến tháng 9/2010, toàn tỉnh Quảng Trị đã hoàn thành công tác kết nghĩa 23/23 cặp thôn, bản đối diện hai bên biên giới với các huyện Sa Muồi, tỉnh Salavan và huyện Sê Pôn, Mường Noòng, tỉnh Savannakhet (Lào).
Qua thực tiễn đã chứng minh, mô hình “Kết nghĩa bản- bản hai bên biên giới” là một chủ trương đúng đắn, thể hiện sự thống nhất cao của chính quyền tỉnh Quảng Trị với hai tỉnh Savannakhet và Salavan, vai trò tham mưu của Bộ đội Biên phòng Quảng Trị và lực lượng bảo vệ biên giới của Lào; đồng thời phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; khẳng định vị trí, vai trò to lớn của nhân dân ở khu vực biên giới trong phối hợp quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia của mỗi nước. Mô hình “Kết nghĩa bản- bản hai bên biên giới” chính là hoạt động đối ngoại nhân dân và đã đem lại hiệu quả vô cùng thiết thực. Sau khi kết nghĩa, nhân dân tích cực tham gia với lực lượng chuyên trách của mỗi bên tuần tra bảo vệ đường biên, cột mốc; cung cấp hàng trăm nguồn tin quan trọng liên quan đến các đường dây ma túy xuyên quốc gia, tội phạm buôn bán chất nổ, mua bán phụ nữ qua biên giới.
Qua các hoạt động kết nghĩa, nhận thức của người dân hai bên biên giới về trách nhiệm đối với chủ quyền lãnh thổ quốc gia của mỗi nước được nâng lên rõ rệt. Nhân dân tự giác chấp hành nghiêm các quy chế kết nghĩa đã được cam kết, quy chế biên giới quốc gia giữa Việt Nam và Lào. Nhờ vậy, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới luôn được giữ vững. Tình trạng xuất, nhập cảnh, xuất nhập biên trái phép, xâm canh, xâm cư, kết hôn hai bên biên giới trái pháp luật đã giảm rõ rệt. Việc qua lại thăm thân, trao đổi mua bán hàng hoá, nông sản, giúp nhau phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đã được thuận lợi hơn. Đặc biệt, sau khi kết nghĩa, nhân dân hai bên biên giới coi nhau như anh em một nhà, sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ nhau trong những lúc khó khăn, hoạn nạn.
Đồng thời, thông qua các hoạt động đối ngoại, nhân dân hai bên biên giới đã đoàn kết đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc, phá hoại tình đoàn kết của hai dân tộc, nhằm xây đắp truyền thống hữu nghị giữa nhân dân hai bên biên giới ngày càng bền chặt. Mặt khác, những vụ việc nảy sinh trên tuyến biên giới đã được các lực lượng chức năng, chính quyền và nhân dân hai bên cùng trao đổi, bàn bạc thấu tình đạt lý trong phạm vi thẩm quyền, theo đúng hiệp định, quy chế biên giới hai Nhà nước đã ký kết và pháp luật cũng như phong tục tập quán của mỗi bên.
Hàng năm tỉnh Quảng Trị sử dụng ngân sách địa phương để hỗ trợ xây dựng một số dự án như trường học, trạm xá, cung cấp cây con giống và tiến hành khảo sát các dự án trồng rừng, cà phê, hồ tiêu tại một số vùng thuộc hai tỉnh Salavan và Savannakhet (Lào). Bộ đội Biên phòng Quảng Trị đã giúp thực hiện hai dự án xây dựng trường học tại huyện Noòng, tỉnh Savannakhet và huyện Sa Muồi, tỉnh Salavan, trị giá trên 3 tỷ đồng; xây tặng cụm bản Ka túp, huyện Sê Pôn, tỉnh Savannakhet 1 trạm y tế trị giá 600 triệu đồng; xây tặng 3 “Nhà hữu nghị” cho 3 hộ gia đình nghèo tại bản La Lay A Sói, huyện Sa Muồi, tỉnh Salavan, trị giá 180 triệu đồng; Hội LHPN tỉnh tổ chức 03 lớp dạy tiếng Việt cho 76 học viên là chị em phụ nữ Lào các bản giáp biên.
Các ngành Hải quan, Quân sự, Công an, cùng cấp ủy, chính quyền các huyện, xã dọc biên giới và các đồn, Trạm Biên phòng đã tăng cường làm tốt công tác đối ngoại, giúp đỡ chính quyền, nhân dân bạn Lào dọc tuyến biên giới phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xoá đói giảm nghèo, xoá nhà dột nát…
Ngoài ra, hàng năm ngành Y tế các địa phương trong tỉnh đã cùng Bộ đội Biên phòng Quảng Trị đã tổ chức các đợt khám, điều trị và cấp thuốc, chữa bệnh miễn phí cho dân bản bạn Lào trị giá hàng trăm triệu đồng. Các trạm xá Quân dân y kết hợp của Bộ đội Biên phòng Quảng Trị đã thu dung, điều trị cho hàng ngàn lượt bệnh nhân người Lào sinh sống dọc tuyến biên giới. Nhờ sự giúp đỡ tận tình, thủy chung của những người bạn Việt Nam, nên các bản làng biên giới của bạn Lào đã không ngừng thay da đổi thịt.
Sau hơn 10 năm thực hiện, mô hình “Kết nghĩa bản- bản hai bên biên giới” đã tạo chuyển biến quan trọng trong nhận thức của các cấp, các ngành và nhân dân hai bên biên giới về chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia, phát huy được sức mạnh quần chúng trong xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới của mỗi nước. Các hoạt động đối ngoại biên phòng, đối ngoại nhân dân đã được tăng cường và mở rộng cả về hình thức và nội dung nhằm xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.
Mô hình “Kết nghĩa bản- bản hai bên biên giới” là sự sáng tạo trong công tác dân vận, một tư duy mới về công tác xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trong thời kỳ mới. Đồng thời là một minh chứng sinh động về tình hữu nghị đặc biệt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam- Lào vững chãi như dãy Trường Sơn hùng vĩ. Từ kết quả của mô hình “Kết nghĩa bản- bản hai bên biên giới” tại Quảng Trị, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng Việt Nam đã tổ chức nhân rộng mô hình này ra các tuyến biên giới Việt Nam- Lào, Việt Nam- Trung Quốc và Việt Nam- Campuchia.
Nguồn: baoquangtri.vn, ngày 2/3/2016