Thứ Bảy, 21/12/2024

Giá trị tín ngưỡng thờ Mẫu trong gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc hiện nay

Thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian bản địa, thuần Việt, có lịch sử lâu đời, biến chuyển thích ứng với sự thay đổi của xã hội. Tín ngưỡng thờ Mẫu là nhu cầu trong đời sống tâm linh của người Việt, mang lại cho họ sức mạnh, niềm tin và có sức thu hút mọi tầng lớp trong xã hội. Đồng thời, nó góp phần bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.

Dân tộc ta không có tôn giáo bản địa theo đúng nghĩa của nó, mà chỉ có tín ngưỡng bản địa. Dù thuộc dân tộc nào trong đại gia đình dân tộc Việt Nam cũng có tín ngưỡng thờ cúng cha mẹ, tổ tiên, thành hoàng và người có công với dân, với nước, với xóm làng. Tiến trình phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu là một dòng chảy liên tục, nhưng cũng có những mốc lịch sử cơ bản đánh dấu trình độ hoàn thiện và sắc thái mới về hình thức cũng như nội dung. Mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam là sự xuất hiện truyền thuyết mẹ Âu Cơ cùng với Lạc Long Quân sinh ra bọc “trăm trứng”. Có thể khai thác truyền thuyết này ở các góc độ khác nhau, nhưng thống nhất ở tinh thần tôn vinh người mẹ đối với vấn đề đoàn kết toàn dân tộc. Ở góc độ tín ngưỡng tôn giáo học, truyền thuyết này vừa là sự kế thừa tín ngưỡng thờ mẹ trong lịch sử, vừa phản ánh nhu cầu đặt ra cho cả cộng đồng người Việt phải đoàn kết mới tồn tại và phát triển. Ở các dân tộc khác trên thế giới, nữ thần được huyền thoại hóa thành nhân vật cứu cánh như một đấng siêu nhiên, còn ở Việt Nam, Thánh Mẫu gắn liền và phản ánh nhu cầu đoàn kết toàn dân tộc trong chống thiên tai và kẻ thù xâm lược. Vì thế, thờ Mẫu là tín ngưỡng mang đậm chất bản địa và hàm chứa giá trị nhân văn, bản sắc văn hóa dân tộc rất sâu sắc.

Quá trình phát triển, con người Việt Nam tiếp tục sáng tạo ra truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh. Truyền thuyết này phản ánh sâu sắc cuộc đấu tranh chống thiên tai gay go, quyết liệt của cộng đồng dân tộc. Lúc này, dấu ấn của chế độ phụ hệ thay thế mẫu hệ bởi hình tượng của hai vị thần (thần Núi và thần Biển - Sông) cùng đến cầu hôn với Mỵ Nương. Mặc dù là chuyện của hai thần, nhưng yếu tố nữ - Mỵ Nương vẫn nổi lên là trung tâm và thể hiện đặc trưng cốt truyện. Truyền thuyết đó vẫn là tiếp nối tín ngưỡng thờ Mẫu nguyên thủy, đồng thời cũng là sự tiếp nối giá trị văn hóa đoàn kết toàn dân tộc trong chống thiên tai.

Khi các tôn giáo nước ngoài xâm nhập vào Việt Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu với tư cách nhân tố bản địa phải đối mặt với thế lực mới và rất mạnh trong khẳng định sức sống của mình. Trong bối cảnh ấy, truyền thuyết về Mỵ Châu - Trọng Thủy đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam. Cho đến nay, các nghiên cứu vẫn chưa khẳng định được Mỵ Châu - Trọng Thủy là lịch sử hay đơn thuần là truyền thuyết, nhưng dù ở góc độ nào cũng cho thấy, đây là một bước ngoặt lớn trong tiến trình phát triển tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam. Tín ngưỡng thờ Mẫu trong văn hóa Việt Nam không chỉ đơn thuần là vấn đề chống thiên tai, mà còn ở việc chống giặc ngoại xâm. Mặc dù trong truyền thuyết có nhiều nhân vật cả thần và người; cả tình yêu và chính trị; cả tín ngưỡng giai đoạn tô tem giáo (vạn vật hữu linh) với tôn giáo mới; cả yếu tố bản địa và nước ngoài, nhưng vẫn thể hiện yếu tố nữ bởi nhân vật Mỵ Châu. Sự khác biệt với các hiện tượng khác trong lịch sử ở truyền thuyết này là việc giải quyết vấn đề quan hệ giữa yếu tố bản địa và yếu tố bên ngoài là chính. Hơn nữa đây là bài học xương máu của yếu tố nữ trong việc làm lộ bí mật quốc gia để đất nước rơi vào cảnh nước mất, nhà tan. Qua truyền thuyết này cho thấy, yếu tố nữ có vai trò quan trọng không chỉ đối với gia đình, cộng đồng, mà còn đối với quốc gia, dân tộc cả về thịnh vượng hay không thịnh vượng. Trong tâm khảm của mỗi con người Việt Nam qua các thế hệ, vẫn lấy truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy khuyên răn nhau về tinh thần cảnh giác trước âm mưu của các thế lực xâm lược bên ngoài. 

Trong suốt gần một nghìn năm Bắc thuộc và trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, những giá trị trong truyền thống nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng vẫn không ngừng được hun đúc trở thành sức mạnh to lớn ở phương diện văn hóa dân tộc. Hiện nay, tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn tiếp tục phát triển sâu rộng trong tâm thức con người Việt Nam không chỉ trong mỗi gia đình, làng xã mà còn đến quốc gia. Sức mạnh của tín ngưỡng thờ Mẫu gắn với sức mạnh của văn hóa làng rất lớn. Đây là hai mặt của một vấn đề trong tính chỉnh thể thống nhất. Chỉ có ở Việt Nam mới tồn tại tình trạng “mất nước” nhưng không mất nhà và làng. Mất nước nhưng không xóa được văn hóa làng, không đồng hóa văn hóa dân tộc. Sức mạnh của văn hóa làng Việt Nam có nhiều nhân tố cấu thành, trong đó có tín ngưỡng thờ Mẫu. Tín ngưỡng thờ Mẫu trong gia đình, trong làng hun đúc lên những tấm gương anh dũng chống giặc ngoại xâm như Hai Bà Trưng, Bà Triệu... mang tầm vóc quốc gia, dân tộc. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán của Ngô Quyền (năm 938) và cuối cùng tiến tới giành quyền độc lập tự chủ, chấm dứt nghìn năm Bắc thuộc, là sản phẩm của cả chiều dài lịch sử liên tục đứng lên đấu tranh của nhân dân Việt Nam các vùng miền, trong đó có sự đóng góp quan trọng của tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam.

Trong cuộc kháng chiến chống Tống, tín ngưỡng thờ Mẫu tiếp tục phải khẳng định vai trò đối với vận mệnh dân tộc và đã phát triển gắn với những con người phụ nữ có thật được huyền thoại hóa thành Thánh Mẫu là Nguyên phi Ỷ Lan. Khác với trước đây, yếu tố truyền thuyết giảm dần bởi nhân vật là có thật của lịch sử. Quá trình tôn vinh, thánh hóa Nguyên phi Ỷ Lan là quá trình kế thừa toàn bộ giá trị văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng thờ Mẫu và vượt lên với những nét đặc sắc riêng. Sự kiện Nguyên phi Ỷ Lan vốn là một thôn nữ, được Vua tuyển dụng làm phi và với đức độ, tài năng giúp Vua lo việc nước. Với hai lần nhiếp chính dẹp thù trong và chống giặc ngoài cùng một lúc đã nâng tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam lên tầm cao mới. Với công đức của Nguyên phi Ỷ Lan, nhân dân ta đã tôn vinh Bà như một vị thánh bằng việc xây dựng đền thờ và các lễ hội hàng năm để tô thắm giá trị, ý nghĩa văn hóa dân tộc của tín ngưỡng Mẫu đối với vận mệnh đất nước.

Lịch sử tiếp tục phát triển với những bước thăng trầm của nó. Thánh Mẫu Liễu Hạnh lại được huyền thoại hóa khác với Nguyên phi Ỷ Lan. Nguồn gốc lại là một tiên nữ trên trời do đánh vỡ cái ly ngọc quý và bị đầy xuống trần gian rồi gần gũi, hòa mình vào cuộc sống thực của người lao động. Sau khi về trời, nhưng vì nhớ cõi trần nên đã giáng thế lần hai. Khác biệt với lần trước, lần này Liễu Hạnh đi chu du khắp thiên hạ và trừng phạt những kẻ thất đức, trong đó có cả hoàng tử con vua ngỗ ngược. Mặc dù có nhiều dấu hiệu của huyền thoại thể hiện tư duy trừu tượng của dân chúng tăng lên, nhưng vẫn mang đặc trưng của cách tạo thần, tạo thánh đậm sắc thái Việt Nam. Nó cũng nằm trong cái chung của niềm tôn kính nữ thần đất Việt và là bậc siêu thoát thanh cao trong sự thống nhất giữa Tiên - Phật - Thánh - Thần, đồng thời là khát vọng yêu thương nơi trần gian, là cốt cách, tâm hồn, đức hạnh người phụ nữ Việt Nam trinh - từ - hiếu - thuận. Những phẩm giá đó trở thành bậc “Mẫu nghi thiên hạ”, một trong “tứ bất tử” của văn hóa tôn giáo dân tộc ta.

Qua truyền thuyết dân gian về Thánh Mẫu Liễu Hạnh, chúng ta thấy đó là một niềm tin và sự cầu mong về một lẽ công bằng của nhân dân. Hay có thể nói ngược lại: Chính niềm tin và sự cầu mong ấy là tiền đề để nảy sinh ra một câu chuyện thần kỳ, là câu chuyện về Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Con đường để hình thành truyền thuyết về Đức Thánh Mẫu cũng là những con đường đã hình thành nên truyền thuyết về các vị thánh và các vị linh thần khác. Đó là con đường của sáng tác dân gian hoặc con đường dân gian hóa những tác giả, những tác phẩm cụ thể... Công chúa Liễu Hạnh đã để lại một hình ảnh mẫu mực xứng đáng là tấm gương và cái đích cần vươn tới của các thế hệ phụ nữ Việt Nam.

Ngoài những dấu ấn lịch sử trên còn có những biểu hiện khác của phát triển Thánh Mẫu Việt Nam. Vẫn theo mô tuýp tạo thần, tạo Thánh Mẫu của cộng đồng người Việt sống với nền văn minh lúa nước, phải đoàn kết chống thiên nhiên khắc nghiệt và chống giặc ngoại xâm tàn bạo thì còn biết bao những Thánh Mẫu ở từng địa phương, từng vùng và từng thời đại cụ thể. Chẳng hạn như: Tiên Dung Công Chúa gắn với Chử Đồng Tử ở Hưng Yên; Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh; Bà Chúa núi Bà Đen ở Tây Ninh; Vương Mẫu (Mẹ của Thánh Gióng) ở Hà Nội...

Trong lịch sử cũng như hiện nay, tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam rất đa dạng, phong phú về diện mạo, nhưng thống nhất ở một hướng phát triển ở nội dung giá trị của tín ngưỡng bản địa dân tộc thờ Mẫu. Sự ảnh hưởng sâu rộng của tín ngưỡng thờ Mẫu - tín ngưỡng bản địa với các tín ngưỡng, tôn giáo du nhập từ bên ngoài vào đã làm mềm hóa những tôn giáo đó. Phật giáo - một tín ngưỡng đã được Nhân dân lao động hồ hởi đón nhận ngay từ khi mới được truyền bá vào nước ta (khoảng thế kỷ thứ VI) để thấy được vai trò của người phụ nữ trong xã hội, đặc biệt là trong nền nghệ thuật của nước nhà. Trong quá trình tín ngưỡng thờ Phật du nhập vào nước ta, các bộ phận quan trọng của tín ngưỡng này đã phát triển theo khuynh hướng dân gian hóa giữa tín ngưỡng thờ Phật và tín ngưỡng thờ Mẫu, có sự thâm nhập và tiếp thu ảnh hưởng lẫn nhau. Điều dễ nhận thấy là hầu hết các ngôi chùa hiện nay ở nông thôn Việt Nam đều có điện thờ Mẫu. Trong đó phổ biến nhất là dạng “tiền Phật hậu Mẫu”. Các Phật tử đi chùa vừa để lễ Phật, vừa để cúng Mẫu. Nhiều khi điện Mẫu đã tạo nên không khí ấm cúng, gần gũi nhộn nhịp hơn cho các ngôi chùa. 

Nho giáo không phải là một tôn giáo, nhưng cũng có thể coi là một loại đạo vào Việt Nam với nội dung cơ bản “trọng nam, khinh nữ” và với chữ “nhân” có tính cá nhân của bậc quân tử. Khi vào Việt Nam, những quan niệm về coi thường phụ nữ đã mất đi rất nhiều bởi sự tôn vinh vai trò người mẹ, mà biểu hiện tập trung ở tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam. Cái nhân của cá nhân bậc quân tử lại mang tính đại chúng, tính dân tộc rất cao và góp phần tích cực vào bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước.

Thiên Chúa giáo với vai trò tối cao của Đức Chúa Giêsu ở nước ngoài, nhưng khi du nhập vào Việt Nam thì vị trí Đức Mẹ Maria lại được nâng cao lên. Những sự kiện lịch sử đó cho thấy, mặc dù sự xâm nhập của các tôn giáo, các đạo nước ngoài vào Việt Nam có sức mạnh rất lớn, được “hộ tống” bởi chính trị, quân sự, nhưng đều bị “Việt Nam hóa” bởi tín ngưỡng thờ Mẫu.

Có thể thấy, tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam mang tính chất bản địa rất sâu sắc, có sức mạnh rất lớn xuyên suốt lịch sử. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam cũng rất đa dạng về hình thức biểu hiện, nhưng cũng thống nhất rất cao ở tính bản địa và quy về một mối là giúp nước, giúp dân trong chống thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm giành, giữ, bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc. Hình ảnh Mẹ Việt Nam Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh là biểu tượng sáng ngời minh chứng cho sự tôn vinh người phụ nữ. Sự tôn vinh Mẹ Việt Nam Anh hùng chính là tiếp nối truyền thống phát triển tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam và mang bản sắc văn hóa tôn giáo dân tộc sâu sắc. Hình ảnh đó cũng đã vượt lên khỏi tính chất huyền thoại thể hiện giá trị ở tính hiện thực nhân đạo, nhân văn một cách điển hình nhất.

Hiện nay, nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân ngày càng mở rộng. Mỗi người dân Việt Nam đều có quyền tin theo một tôn giáo, tín ngưỡng. Do đó, cần khai thác các giá trị, nhân tố tích cực trong các tín ngưỡng, tôn giáo và đặc biệt là giá trị nhân văn trong tín ngưỡng thờ Mẫu vào xây dựng môi trường văn hoá. Đó là các phong tục tập quán có từ lâu đời từng hun đúc lên sức mạnh của Nhân dân trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; là nền tảng đạo đức trong cách thức ứng xử giữa con người với con người, được thể hiện ở sự kính trọng với những người đã sinh thành ra mình, những người có công với dân, với nước.

 Bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cũng là bảo vệ, phát huy những giá trị có tính bản địa, ý nghĩa tích cực của tín ngưỡng thờ Mẫu trong thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc và phát triển chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn, tiến bộ trong tiến trình xây dựng và bảo vệ đất nước giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay.n

TS. Nguyễn Văn Thanh, TS. Lê Trọng Tuyến

Bài cùng chuyên mục

Các bài khác

TẠP CHÍ IN